Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Tên tác giả: admin

Kêu gọi đề xuất, Thông báo, Tin tức

Thông báo tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia

Thực hiện Quyết định số 2848/QĐ-BKHCN ngày 23 tháng 9 năm 2025 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt Danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặt hàng thuộc Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng”, mã số: KC.05/21-30 (đợt 2) để tuyển chọn thực hiện, Bộ Khoa học và Công nghệ thông báo như sau: 1. Phương thức tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 20/2023/TT-BKHCN ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước (Thông tư số 20/2023/TT-BKHCN). 2. Hồ sơ đăng ký tham gia tuyển chọn được chuẩn bị theo hướng dẫn tại Thông tư số 20/2023/TT-BKHCN. 3. Việc lập dự toán, định mức xây dựng dự toán ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ thực hiện theo quy định tại Thông tư số 03/2023/TT-BTC ngày 10 tháng 01 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ và Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08 tháng 5 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước và các quy định có liên quan. 4. Nơi nhận hồ sơ: Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, số 113 Trần Duy Hưng, phường Yên Hòa, Thành phố Hà Nội. 5. Thời điểm bắt đầu nhận Hồ sơ: ngày 29 tháng 9 năm 2025 6. Thời hạn nhận hồ sơ: Trước 17 giờ 00 ngày 28 tháng 10 năm 2025, theo dấu đến của Bộ Khoa học và Công nghệ (trường hợp nộp trực tiếp) hoặc theo dấu bưu chính nơi gửi (trường hợp gửi qua bưu chính).

Kết quả tài trợ nổi bật, Kết quả tài trợ nổi bật - NCCB KHTN

Nghiên cứu phát triển phương pháp phân tích, quan trắc và đánh giá rủi ro do các chất nhóm phthalate và siloxane tích lũy trong môi trường không khí và nước tại khu vực Hà Nội, Việt Nam

Nội dung của cụm ba công trình góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn cấp bách mang tính toàn cầu hiện nay là ô nhiễm môi trường. Trong đó ô nhiễm môi trường do sự phát tán của các hóa chất tổng hợp đã được chứng minh có độc tính gây rối loạn nội tiết mới nổi như nhóm phthalate và siloxane đang thu hút được sự quan tâm rất lớn của cộng đồng trong những năm gần đây. Phthalate (ester của acid phthalic) và siloxane (silic hữu cơ có chứa nhóm methyl) là hai nhóm chất bao gồm nhiều đồng loại có cấu trúc phức tạp và được biết đến là các phụ gia được sử dụng rất phổ biến với hàm lượng lớn (lên tới vài phầm trăm về khối lượng) trong nhiều sản phẩm như: các vật liệu bằng nhựa, vật dụng gia đình, đồ chơi trẻ em, sản phẩm chăm sóc cá nhân, mỹ phẩm, dược phẩm và thẩm mỹ…. Do được sử dụng rộng rãi, các hóa chất này đã phát tán vào các môi trường khác nhau và thậm chí đi vào chuỗi thức ăn của con người và động vật. Đáng quan tâm hơn bởi gần đây các nhà khoa học đã tìm thấy những bằng chứng về độc tính của chúng đối với động vật trong phòng thí nghiệm. Tác động chính của các nhóm phthalate và siloxane là làm thay đổi hệ nội tiết của động vật thí nghiệm như hormone sinh sản (estrogen), hormone sinh trưởng và hệ vận động. Tuy nhiên, cho đến nay những hiểu biết về mức độ phân bố trong môi trường của nhóm hóa chất này vẫn còn rất hạn chế do thiếu các phương pháp đồng bộ và năng lực phân tích chưa đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, việc lựa chọn hướng nghiên cứu xây dựng các phương pháp phân tích hiện đại và chính xác; khả năng xử lý và làm sạch môi trường; để nâng cao hiểu biết của cộng động về nguồn gốc, sự tích lũy, rủi ro đối với môi trường để từ đó đề ra các giải pháp nhằm quản lý, sử dụng, kiểm soát các hóa chất nhóm phthalate và siloxane một cách hiệu quả là những vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách. Hình 1: Biểu đồ phân tích thành phần chính của phthalic acid ester (phthalate và siloxane) trong không khí tại Hà Nội (Nguồn: Science of the Total Environment, 760, 143380) Công trình thứ nhất: Nội dung của nghiên cứu này phát triển phương pháp phân tích chính xác cao, hiệu quả, đồng thời 10 hợp chất nhóm phthalate và 3 hợp chất siloxane mạch vòng trong không khí ở lượng vết. Nghiên cứu đã xác định thành phần của phthalate và siloxane trong hai pha (pha hạt và pha hơi), từ đó nhóm tác giả tính toán hằng số phân bố (Kp) và hệ số phát tán (Kow) bằng phương trình bán thực nghiệm. Nhóm tác giả cũng đã đề xuất công thức ước lượng mức độ rủi ro phơi nhiễm của các hóa chất này qua con đường hít thở không khí cho các nhóm lứa tuổi khác nhau. Nghiên cứu có ý nghĩa và giá trị khoa học quan trọng trong việc phát triển các phương pháp phân tích chính xác, hiện đại; đồng thời cung cấp những hiểu biết mới về nguồn gốc phát tán, mức độ ô nhiễm trong không khí và rủi ro phơi nhiễm ở Việt Nam do các hóa chất gây rối loạn nội tiết mới nổi nhóm phthalate và siloxane. Công trình thứ hai: Trong nghiên cứu này, phương pháp chính xác để phân tích các hợp chất siloxane mạch vòng trong môi trường nước đã được phát triển thành công dựa trên thiết bị sắc ký khí ghép nối khối phổ (GC-MS) và kỹ thuật chiết pha rắn (SPE). Phương pháp phân tích có độ thu hồi cao, độ lặp lại và độ ổn định tốt, độ lệch chuẩn nhỏ, giới hạn phát hiện thấp để có thể định lượng các chất siloxane trong mẫu nước ở mức lượng vết. Nhóm tác giả đã áp dụng phương pháp phát triển được để phân tích, quan trắc mức độ phân bố của các chất siloxane mạch vòng trong các loại mẫu nước thu thập tại khu vực nội đô Hà Nội bao gồm: nước máy, nước đóng chai, nước ao hồ và nước thải (trước và sau khi xử lý). Nghiên cứu đã cung cấp bộ số liệu đáng tin cậy về mức độ ô nhiễm, bước đầu đánh giá liều lượng rủi ro phơi nhiễm siloxane qua con đường nước uống cho các nhóm lứa tuổi khác nhau và rủi ro sinh thái cho các động vật thủy sinh do sự tích lũy của siloxane trong môi trường nước. Hình 2: Mức độ ô nhiễm của phthalic acid ester (phthalate) trong các loại mẫu nước khác nhau (Nguồn: Science of the Total Environment, 788, 147831) Công trình thứ ba: Công trình là một trong những báo cáo tiên phong về đối tượng hóa chất nhóm phthalate và mẫu nước được nghiên cứu tại Việt Nam. Nghiên cứu đã phát triển phương pháp xác định đồng thời 10 chất phthalate trong mẫu nước dựa trên kỹ thuật chiết pha rắn (SPE) kết hợp với sắc ký khí ghép nối khối phổ (GC-MS). Ưu điểm của phương pháp là độ chính xác và độ ổn định cao, độ thu hồi tốt, giới hạn phát hiện thấp để có thể định danh và định lượng đồng thời 10 hợp chất nhóm phthalate trong mẫu nước ở lượng vết, tiết kiệm dung môi hữu cơ độc hại, giảm thời gian chuẩn bị mẫu và chi phí thu thập mẫu môi trường. Công trình là một trong số ít những báo cáo trên thế giới về mức độ phân bố và ô nhiễm của các

Kết quả tài trợ nổi bật

Cơ chế lan truyền ô nhiễm ven biển Nam Bộ: Giải mã nguồn gốc và tác động

Vùng biển ven bờ từ Vũng Tàu tới Kiên Giang là khu vực phát triển kinh tế – xã hội sôi động, đồng thời sở hữu hệ sinh thái phong phú của Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, khu vực này đang đối mặt với áp lực ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng từ nhiều nguồn khác nhau – đặc biệt là từ các chất dinh dưỡng (như nitơ, phosphor) và kim loại nặng (như chì, kẽm, đồng). Sự phát triển nông nghiệp thâm canh, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp và đô thị hóa đã làm gia tăng lượng chất thải và nước thải đổ ra sông, kênh rạch và cuối cùng chảy ra biển. Kết quả là chất lượng nước và trầm tích ven biển Nam Bộ suy giảm nghiêm trọng, đe dọa đến tính toàn vẹn của các hệ sinh thái ven bờ, từ rừng ngập mặn, đầm phá cho tới các rạn san hô cận bờ. Tình trạng này không chỉ tác động xấu đến đa dạng sinh học mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế và sức khỏe của hàng triệu người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh nguồn thải tại chỗ, khu vực ven biển Nam Bộ còn tiếp nhận ô nhiễm từ thượng nguồn thông qua hệ thống sông Mê Kông và sông Đồng Nai. Hai dòng sông lớn này vận chuyển phù sa và chất ô nhiễm từ lưu vực rộng hàng trăm ngàn km² trải dài qua nhiều quốc gia. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm thay đổi chế độ mưa lũ và mực nước biển dâng, cũng như tình trạng xâm nhập mặn gia tăng, cơ chế vận chuyển và lắng đọng các chất ô nhiễm ngày càng phức tạp. Các hiện tượng cực đoan – như mưa lớn, lũ lụt hay hạn mặn – có thể làm bùng phát sự cố ô nhiễm, chẳng hạn hiện tượng phú dưỡng dẫn tới “thủy triều đỏ” (tảo nở hoa) gây thiếu oxy cục bộ, hoặc sự tích tụ kim loại nặng cô đặc trong mùa khô. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải làm rõ: các chất ô nhiễm này bắt nguồn chủ yếu từ đâu, cơ chế truyền tải và tích tụ của chúng ra sao, và hệ quả lâu dài đối với môi trường – con người trong vùng là gì? Hình 1: Bản đồ khu vực nghiên cứu ven biển Nam Bộ. Hộp đỏ (trái) thể hiện vị trí Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở hạ lưu lưu vực sông Mê Công Mặc dù vấn đề ô nhiễm vùng ven biển Nam Bộ đã được nhận diện, các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào việc đánh giá hiện trạng (mức độ ô nhiễm nước, trầm tích bởi dinh dưỡng, kim loại nặng, thuốc trừ sâu, kháng sinh, vi nhựa…) hơn là giải thích nguyên nhân và cơ chế. Nhiều câu hỏi khoa học vẫn bỏ ngỏ: Ví dụ, tỉ lệ đóng góp của từng nguồn thải (nông nghiệp, đô thị, công nghiệp…) vào tổng lượng ô nhiễm là bao nhiêu? Những quá trình thuỷ động lực nào chi phối sự phân tán hay tích tụ của chất ô nhiễm trong nước biển và trầm tích? Điều kiện mùa mưa – mùa khô tác động như thế nào đến phạm vi lan truyền ô nhiễm? Và mức độ nguy hiểm sinh thái đến đâu – liệu các hệ sinh thái và chuỗi thức ăn ven biển đã bị tổn thương đáng kể hay chưa? Những khoảng trống này đòi hỏi một cách tiếp cận nghiên cứu liên ngành, kết hợp số liệu thực địa với mô hình phân tích tiên tiến để có câu trả lời toàn diện. Để giải quyết các vấn đề trên, nhóm các nhà khoa học do PGS.TS. Triệu Ánh Ngọc chủ trì đề tài “Nghiên cứu cơ chế truyền tải, tích tụ và phân tán chất ô nhiễm vùng biển ven bờ từ Vũng Tàu tới Kiên Giang” đã triển khai đề tài nghiên cứu công phu trong giai đoạn 2021–2025. Đề tài áp dụng cách tiếp cận đa ngành, lần đầu kết hợp đồng bộ các phương pháp truyền thống và hiện đại tại Việt Nam nhằm “giải mã” bài toán ô nhiễm ven biển Nam Bộ. Cụ thể, bên cạnh công tác khảo sát thực địa, thu thập hàng trăm mẫu nước, trầm tích và sinh vật tại các cửa sông, vùng ven bờ và gần bờ, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các kỹ thuật phân tích tối tân: phân tích đồng vị bền (δ¹⁵N, δ¹³C trong hợp chất nitơ, carbon; tỷ lệ ²⁰⁶Pb/²⁰⁷Pb trong chì) để truy tìm dấu vết nguồn gốc chất ô nhiễm, cùng với mô hình thủy động lực – chất lượng nước 3 chiều để mô phỏng quá trình lan truyền trong các kịch bản khác nhau. Song song đó, công cụ toán MixSIAR (mô hình trộn Bayesian) được triển khai nhằm định lượng phần trăm đóng góp của từng nguồn ô nhiễm vào môi trường thông qua dữ liệu đồng vị. Đáng chú ý, kỹ thuật thủy văn đồng vị được áp dụng lần đầu cho vùng ven biển Việt Nam đã cho phép phân biệt tương đối rõ dấu hiệu ô nhiễm từ phân bón nông nghiệp, nước thải sinh hoạt hay chất thải công nghiệp dựa trên các giá trị đặc trưng của δ¹⁵N và δ¹³C. Cách tiếp cận liên ngành và tích hợp này tạo nên một khung nghiên cứu toàn diện, vừa có khả năng lượng hóa mức độ ô nhiễm, vừa truy nguyên được nguồn gốc và cơ chế lan truyền các chất ô nhiễm. Kết quả nghiên cứu đã phác họa chi tiết cơ chế truyền tải, phân tán và tích tụ các chất ô nhiễm tại vùng biển ven bờ Nam Bộ. Hệ thống sông ngòi dày đặc đóng vai

Kết quả tài trợ nổi bật

Bể chứa cacbon hữu cơ trong đất vùng đồng bằng Sông Hồng: Cơ sở quan trọng giám sát chất lượng đất và phát thải khí nhà kính từ đất

Xác định bể chứa cacbon hữu cơ trong đất: Cơ sở tham chiếu biến động SOC trong tương lai Nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và hướng tới mục tiêu Net Zero năm 2050 của Việt Nam, đề tài “Nghiên cứu xác định bể chứa cacbon hữu cơ trong đất vùng đồng bằng Sông Hồng phục vụ giám sát chất lượng đất và phát thải khí nhà kính từ đất”, mã số: ĐTĐL.CN-49/21, do TS. Nguyễn Thanh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài; Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là Cơ quan chủ trì, đã được triển khai từ năm 2021 và hoàn thành đầu năm 2025 với những đóng góp mới mang tính đột phá. Đất vừa là bể chứa vừa là một nguồn phát thải cacbon trên cạn, có ảnh hưởng lớn đến chu trình cacbon toàn cầu. Cacbon hữu cơ trong đất (SOC) đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với độ phì của đất và chu trình cacbon toàn cầu (Peng-Tao và nnk, 2014). Vì vậy, SOC đã được lựa chọn làm chỉ thị để đánh giá sức khỏe đất và chỉ thị để theo dõi, giám sát thực hiện một trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Để theo dõi, giám sát và đánh giá sự thay đổi trữ lượng SOC ở quy mô vùng cần thiết xây dựng đường cơ sở (baseline) trữ lượng SOC hay sự phân hóa không gian trữ lượng SOC tham chiếu ở các bể cacbon trong đất, đặc biệt ở đất canh tác nông nghiệp thay đổi hàng năm. Đây là cơ sở để sau 5 năm hay 10 năm và hơn nữa trong tương lai cho phép chúng ta đánh giá sự tăng hay giảm trữ lượng SOC ở các bể cacbon, cung cấp cơ sở xác định lượng khí nhà kính phát thải từ đất sản xuất nông nghiệp thông qua công thức chuyển đổi, từ đó có thể hình thành tín chỉ cacbon từ đất sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, sự biến động SOC cho phép đánh giá sơ bộ chất lượng đất thông qua các chỉ tiêu như hàm lượng đạm… Việc giám sát biến động trữ lượng SOC hiệu quả cho phép xác định các biện pháp quản lý đất đai hợp lý, nhằm vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa bảo tồn SOC, tăng cường cố định và lưu trữ cacbon trong đất từ khí quyển. Vùng đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) bao gồm 11 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình), được xem là một trong các vựa lúa của Việt Nam. Vùng ĐBSH được đánh giá bị ảnh hưởng nặng nề dưới tác động của BĐKH và nước biển dâng; trong đó, các loại sử dụng đất và hoạt động nhân sinh trên đất có thể được xem là là đối tượng chịu tác động mạnh nhất. Việc xác định các bể chứa cacbon trong đất nông nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng là một trong những bước quan trọng trong giám sát chất lượng đất và phát thải khí nhà kính từ đất. Những đóng góp mới của đề tài Về khoa học, ở quy mô điểm, đề tài đã lần đầu tiên ứng dụng thành công nghệ quang phổ ở dải sóng khả kiến và cận hồng ngoại để đo tính hàm lượng cacbon hữu cơ trong mẫu đất vùng đồng bằng Sông Hồng, Việt Nam với sự hỗ trợ của mô hình toán học trong tiền xử lý dữ liệu phổ, lập mô hình và phân chia tập dữ liệu mẫu. Ở quy mô vùng, đề tài đã lần đầu tiên ứng dụng mô hình trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu viễn thám và một số dữ liệu sẵn có khác ước tính sự phân bố hàm lượng cacbon hữu cơ ở tầng đất 0 – 20 cm ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Việt Nam. Công nghệ quang phổ ở dải sóng khả kiến và cận hồng ngoại để đo tính hàm lượng cacbon hữu cơ trong mẫu đất có thể mở ra hướng nghiên cứu ứng dụng mới. Ngoài ra, đề tài đã xác định được chủng vi khuẩn 457-22, K8.4 và chủng nấm 471b-01, 578.2-02 có hoạt tính cao trong phân hủy chất hữu cơ trong đất vùng nghiên cứu. Hình 1. Minh họa dữ liệu phổ thô của 10 mẫu đất và kết quả tiền xử lý phổ của 15 phương pháp, hàm lượng SOC (%) được thể hiện theo màu Về mặt thực tiễn, đề tài đã lần đầu tiên xác định các bể SOC cho các loại đất canh tác nông nghiệp chính vùng đồng bằng Sông Hồng, Việt Nam, xây dựng đường cơ sở trữ lượng cacbon hữu cơ trong đất ở tầng đất 0 – 20 cm, 0 – 30 cm, ở lớp đất 0 – 1 m cho các bể cacbon đất chính phục vụ việc giám sát trữ lượng SOC, giám sát chất lượng đất thông qua hàm lượng đạm tổng số. Nhiệm vụ đã xác định được khối lượng cacbon hữu cơ trong đất ở tầng đất 0 – 20 cm, 0 – 30 cm, trên cơ sở đó xác định tiềm năng cố định cacbon của các bể cacbon đất chính ở lớp đất 0 – 30 cm. Đề tài đã đề xuất 03 nhóm giải pháp nâng cao hàm lượng cacbon hữu cơ trong đất, giảm phát thải khí nhà kính từ đất và đảm bảo năng suất cây trồng. 3 nhóm giải pháp: (1) Nhóm giải pháp về chính sách, (2) Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện, (3) Nhóm các giải pháp cụ thể cho vùng đồng bằng Sông Hồng. Hơn nữa, 02 chủng vi khuẩn,

Thông báo

Thông báo tuyển dụng viên chức năm 2025

Căn cứ Công văn số 4264/BKHCN-TCCB ngày 28 tháng 8 năm 2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ cho ý kiến về việc tuyển dụng viên chức tại Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia; Căn cứ Quyết định số 301/QĐ-NAFOSTED ngày 10 tháng 9 năm 2025 của Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia phê duyệt Kế hoạch tuyển dụng viên chức năm 2025 của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia; Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia thông báo Tuyển dụng viên chức năm 2025, cụ thể như sau: I. VỊ TRÍ, CHỈ TIÊU, YÊU CẦU VỀ TRÌNH ĐỘ, CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO VÀ CÁC YÊU CẦU KHÁC THEO VỊ TRÍ VIỆC LÀM DỰ TUYỂN 1.VỊ TRÍ, CHỈ TIÊU TUYỂN DỤNG TT Vị trí việc làm Mã ngạch Số lượng Mô tả vị trí việc làm cần tuyển dụng 1 Hành chính – Văn phòng 01.003 01 – Tiếp nhận, xử lý văn bản, công văn đi – đến; – Kiểm tra về hình thức, thể thức văn bản và các thủ tục trình, phát hành,  ban hành văn bản, công văn  theo quy định của Quỹ và của Bộ Khoa học và Công nghệ; – Quản lý lưu trữ hồ sơ hành chính, hồ sơ nhiệm vụ, đề tài; – Quản lý các công việc nội bộ. – Tiếp nhận hồ sơ bộ phận một cửa; thực hiện thủ tục hành chính của Quỹ. 2 Tổng hợp 01.003 02 – Khai thác, phân tích và tổng hợp dữ liệu về tình hình quản lý khoa học của Quỹ; theo dõi tiến độ thực hiện công việc của các Phòng; xây dựng báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động định kỳ, đột xuất theo phân công; – Đánh giá kết quả và tính hiệu quả của hoạt động tài trợ, hỗ trợ theo từng giai đoạn, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động; – Tham gia xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin, quy trình, mẫu biểu liên quan đến công tác tổng hợp; – Phối hợp xây dựng kế hoạch hoạt động của Quỹ; 2. ĐIỀU KIỆN, TIÊU CHUẨN DỰ TUYỂN 2.1. Điều kiện chung Thực hiện theo quy định tại Điều 22 Luật Viên chức. Cụ thể: Người có đủ các điều kiện sau đây không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo được đăng ký dự tuyển viên chức: – Có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam; – Từ đủ 18 tuổi trở lên; – Có Phiếu đăng ký dự tuyển theo mẫu quy định, – Có lý lịch rõ ràng; – Có văn bằng, chứng chỉ đào tạo, chứng chỉ hành nghề hoặc có năng khiếu kỹ năng phù hợp với vị trí việc làm; – Đủ sức khoẻ để thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ; – Đáp ứng các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí việc làm nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Những người sau đây không được đăng ký dự tuyển viên chức: – Mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; – Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang chấp hành bản án, quyết định về hình sự của Tòa án; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng. 2.2. Vị trí, chỉ tiêu, yêu cầu về trình độ chuyên môn, ngành đào tạo và các yêu cầu khác theo vị trí việc làm STT Vị trí việc làm Yêu cầu cụ thể 1 Hành chính – Văn phòng –    Tốt nghiệp đại học trở lên chuyên ngành Văn thư, lưu trữ hoặc Quản trị văn phòng. –    Sử dụng được một ngoại ngữ tương đương bậc 3 khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam trở lên; –    Có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản; –    Ưu tiên ứng viên đã có kinh nghiệm làm công tác văn thư lữu trữ trong tổ chức khoa học và công nghệ hoặc cơ quan/đơn vị quản lý khoa học và công nghệ. 2 Tổng hợp –    Tốt nghiệp đại học trở lên chuyên ngành kiến trúc, kinh tế, tài chính hoặc kế toán. –    Sử dụng được một ngoại ngữ tương đương bậc 3 khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam trở lên; –    Có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản; –    Ưu tiên ứng viên đã có kinh nghiệm làm công tác tổng hợp, tài chính, kế toán, quản lý khoa học trong tổ chức khoa học và công nghệ hoặc cơ quan/đơn vị quản lý khoa học và công nghệ. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐIỂM ƯU TIÊN TRONG TUYỂN DỤNG 3.1. Đối tượng và điểm ưu tiên trong thi tuyển: a) Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B: Được cộng 7,5 điểm vào kết quả điểm vòng 2; b) Người dân tộc thiểu số, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an, quân nhân chuyên nghiệp phục viên, người làm công tác cơ yếu chuyển ngành, học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị, tốt nghiệp đào tạo chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã ngành quân sự cơ sở được phong quân hàm sĩ quan dự bị đã đăng ký ngạch sĩ quan dự bị, con liệt sĩ, con thương binh, con bệnh binh, con của người hưởng chính sách như thương binh, con của thương binh loại B, con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, con Anh hùng Lực lượng vũ trang, con

Sự kiện, Tin tức

Quỹ NAFOSTED công bố quyết định bổ nhiệm Phó Trưởng phòng Quản lý Phát triển Công nghệ

Ngày 15/9/2025, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đã long trọng tổ chức lễ công bố và trao quyết định bổ nhiệm Phó Trưởng phòng, Phòng Quản lý Phát triển Công nghệ. Tham dự buổi lễ có Ban Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ, lãnh đạo các phòng chức năng cùng toàn thể cán bộ, viên chức. Tại buổi lễ, ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc Quỹ NAFOSTED, đã trao quyết định bổ nhiệm chức vụ Phó Trưởng phòng, Phòng Quản lý Phát triển Công nghệ cho ông Vũ Văn Phán. Ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc Quỹ NAFOSTED trao Quyết định và hoa chúc mừng tân Phó Trưởng phòng. Ông Vũ Văn Phán trước khi được bổ nhiệm từng giữ cương vị Trưởng phòng Hạ tầng – Trung tâm Công nghệ thông tin. Trong quá trình công tác, ông đã tích lũy nhiều kinh nghiệm trong quản lý hạ tầng công nghệ thông tin, triển khai ứng dụng các giải pháp công nghệ phục vụ công tác quản lý, điều hành hoạt động của đơn vị. Với kiến thức chuyên môn sâu rộng cùng khả năng quản lý, ông Phán được kỳ vọng sẽ có nhiều đóng góp thiết thực trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của Quỹ, từ công tác quản lý, tài trợ, hỗ trợ nghiên cứu khoa học đến phát triển công nghệ. Phát biểu tại sự kiện, Giám đốc Quỹ NAFOSTED khẳng định, việc kiện toàn đội ngũ lãnh đạo các phòng chuyên môn là nhiệm vụ quan trọng, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác quản lý, tài trợ và hỗ trợ nghiên cứu khoa học – công nghệ. Ban Lãnh đạo Quỹ tin tưởng rằng, trên cương vị mới, ông Vũ Văn Phán sẽ tiếp tục phát huy năng lực, kinh nghiệm, đồng hành cùng tập thể Phòng Quản lý Phát triển Công nghệ hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Đón nhận quyết định bổ nhiệm, ông Vũ Văn Phán bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Lãnh đạo Quỹ, đồng thời cam kết sẽ nỗ lực hết mình, phát huy tinh thần trách nhiệm, đoàn kết cùng tập thể đơn vị để hoàn thành tốt các nhiệm vụ, đóng góp vào sự phát triển chung của Quỹ NAFOSTED cũng như hệ sinh thái khoa học và công nghệ Việt Nam. Buổi lễ diễn ra trong không khí trang trọng, ấm áp, thể hiện sự quan tâm của Quỹ NAFOSTED trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện thành công các mục tiêu, chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong giai đoạn tới. Ban Giám đốc chụp ảnh cùng với phòng Phát triển công nghệ

Sự kiện, Tin tức

Việt Nam – Liên bang Nga tăng cường hợp tác khoa học – giáo dục

Cuộc làm việc giữa lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam và Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học Liên bang Nga đã thống nhất nhiều định hướng hợp tác thiết thực trong đào tạo nhân lực và nghiên cứu các lĩnh vực công nghệ chiến lược, góp phần tăng cường quan hệ đối tác KH&CN và giáo dục giữa hai nước. Ngày 15/9/2025, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Bùi Thế Duy đã có buổi làm việc với Thứ trưởng Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học Liên bang Nga Konstantin Mogilevsky. Cùng dự về phía Bộ Khoa học và Công nghệ có đại diện lãnh đạo Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia, Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ và Vụ Hợp tác quốc tế. Thứ trưởng Bùi Thế Duy chụp ảnh lưu niệm với đoàn công tác của Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học Liên bang Nga do Thứ trưởng Konstantin Mogilevsky là Trưởng đoàn. Tại buổi làm việc, hai bên đã cùng điểm lại những kết quả hợp tác nổi bật thời gian qua, đặc biệt là các chương trình nghiên cứu chung và hoạt động đào tạo nhân lực KH&CN. Thứ trưởng Mogilevsky khẳng định, Chính phủ Nga luôn coi trọng việc hỗ trợ sinh viên Việt Nam, với khoảng 1.000 suất học bổng được trao mỗi năm. Để tận dụng hiệu quả hơn nguồn lực quý báu này, Thứ trưởng Bùi Thế Duy đề xuất mở rộng các chương trình học bổng ngắn hạn từ 6 -12 tháng. Giải pháp này sẽ tạo điều kiện để các nhà khoa học trẻ Việt Nam nâng cao năng lực nghiên cứu, đáp ứng yêucầu phát triển trong giai đoạn mới. Hai bên cũng thống nhất định hướng hợp tác cho Năm Khoa học và Giáo dục Việt – Nga 2026, đồng thời đẩy mạnh phối hợp nghiên cứu ứng dụng KH&CN nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, phát triển đô thị và nâng cao năng suất lao động. Trọng tâm hợp tác sẽ tập trung vào các lĩnh vực công nghệ tiên tiến đang thu hút sự quan tâm của quốc tế như trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain, công nghệ sinh học thế hệ mới, UAV và năng lượng sạch… những lĩnh vực thuộc nhóm công nghệ chiến lược đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt thời gian qua. Cuộc gặp giữa Thứ trưởng Bùi Thế Duy và Thứ trưởng Konstantin Mogilevsky mở ra những bước đi cụ thể, thiết thực cho quan hệ hợp tác KH&CN và giáo dục Việt – Nga. Với quyết tâm của cả hai phía, hợp tác song phương hứa hẹn ngày càng phát triển sâu rộng, đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước. Nguồn: Trung tâm Truyền thông KH&CN

Sự kiện, Tin tức

Hoàn thiện chính sách, đưa công nghệ chiến lược vào thực tiễn

Nhằm triển khai, thực hiện Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) tổ chức tọa đàm khoa học nhằm trao đổi cách tiếp cận và xây dựng Khung Chương trình triển khai. Tham dự, chủ trì buổi tọa đàm có ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc NAFOSTED; ông Hoàng Anh Tú và ông Trần Anh Tú – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ (Bộ KH&CN), cùng 30 chuyên gia đến từ các viện, trường, tổ chức và doanh nghiệp. Toàn cảnh Tọa đàm. Tại Tọa đàm, các đại biểu tập trung thảo luận 6 lĩnh vực trọng điểm: Trí tuệ nhân tạo, bản sao số và thực tế ảo/thực tế tăng cường; điện toán đám mây, công nghệ lượng tử và dữ liệu lớn; công nghệ blockchain; mạng di động thế hệ sau (5G/6G); công nghệ chip bán dẫn; và an ninh mạng. Nội dung trao đổi xoay quanh kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam; đề xuất tiêu chí lựa chọn sản phẩm công nghệ chiến lược, cơ chế đặt hàng và thí điểm (sandbox), lộ trình từ thử nghiệm đến nhân rộng; phương án huy động nguồn lực và liên kết “ba nhà”; đồng thời kiến nghị bộ tiêu chí sản phẩm và hệ thống chỉ số đánh giá kết quả. Ông Hoàng Anh Tú phát biểu tại Tọa đàm. Kết quả dự kiến của Tọa đàm gồm: Dự thảo Khung Chương trình triển khai Quyết định 1131/QĐ-TTg; danh mục nhiệm vụ ưu tiên giai đoạn 2025-2030 (tầm nhìn 2050); đề xuất cơ chế phối hợp, cơ chế tài chính thí điểm để đẩy nhanh thương mại hóa các sản phẩm công nghệ chiến lược. NAFOSTED sẽ tổng hợp ý kiến các nhóm chuyên gia để hoàn thiện hồ sơ, trình Lãnh đạo Bộ xem xét theo thẩm quyền. Tọa đàm đã trở thành diễn đàn trao đổi cởi mở giữa cơ quan quản lý, các chuyên gia và doanh nghiệp, góp phần định hình Khung Chương trình triển khai Quyết định 1131/QĐ-TTg. Đây cũng là bước chuẩn bị quan trọng để huy động trí tuệ tập thể, hoàn thiện chính sách và thúc đẩy ứng dụng các công nghệ chiến lược, tạo động lực cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong giai đoạn tới. Nguồn: Phòng Quản lý Phát triển công nghệ

Thông báo, Tin tức

Khảo sát các lĩnh vực ưu tiên hợp tác nghiên cứu với Hoa Kỳ và Liên Bang Nga

Nhằm xác định các lĩnh vực ưu tiên hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) với Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (NSF) và Quỹ Khoa học Nga (RSF), Quỹ NAFOSTED kính đề nghị các cá nhân, tổ chức tham gia khảo sát và đóng góp ý kiến tại các link dưới đây: Đối với các lĩnh vực ưu tiên hợp tác với Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (NSF): Tại đây Đối với các lĩnh vực ưu tiên hợp tác với Quỹ Khoa học Nga (RSF): Tại đây  Sự tham gia của Quý vị sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng định hướng hợp tác phù hợp và hiệu quả. Đề nghị Quý vị phối hợp hoàn thành khảo sát trước ngày 17/9/2025. Trân trọng cảm ơn./.

Sự kiện, Tin tức

NAFOSTED đồng hành cùng cộng đồng khoa học tại Hội thảo Sydney – Việt Nam 2025

Ngày 12/9/2025, tại khách sạn Pullman (Hà Nội), Hội thảo Đổi mới sáng tạo Sydney – Việt Nam 2025 đã diễn ra với sự tham dự của khoảng 100 đại biểu, bao gồm các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp và đại diện các tổ chức quốc tế. Sự kiện do Viện Đại học Sydney Việt Nam (SVI), Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á Sydney (SSEAC) và Mạng lưới Học thuật Sydney – Việt Nam (SVAN) đồng tổ chức. Hội thảo được tổ chức với mục tiêu giới thiệu những thành tựu hợp tác nghiên cứu nổi bật giữa Đại học Sydney và các đối tác tại Việt Nam, đồng thời tạo không gian kết nối để các bên chia sẻ ý tưởng, thúc đẩy hợp tác và mở rộng mạng lưới nghiên cứu đa ngành. Các phiên làm việc tập trung vào nhiều lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, môi trường, công nghệ, văn hóa và chính sách công. Trong phiên khai mạc, ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đã có bài trình bày quan trọng, giới thiệu về Quỹ, các chương trình tài trợ cũng như cơ chế hoạt động. Ông cho biết, trong hơn 15 năm hình thành và phát triển, NAFOSTED đã trở thành công cụ hữu hiệu của Nhà nước nhằm khuyến khích nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nâng cao năng lực khoa học công nghệ của Việt Nam. Các chương trình tài trợ của Quỹ hướng tới chuẩn mực quốc tế, công khai và minh bạch, với các cơ chế xét chọn cạnh tranh, bình đẳng cho các nhà khoa học trong và ngoài nước. Ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ NAFOSTED trình bày tại Hội thảo Ông Chiến nhấn mạnh, đến nay Quỹ đã tài trợ hàng nghìn đề tài nghiên cứu, góp phần quan trọng vào việc công bố các công trình khoa học trên các tạp chí uy tín quốc tế, đào tạo thế hệ nhà khoa học trẻ, đồng thời tạo ra những kết quả ứng dụng có giá trị thực tiễn trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, công nghệ thông tin và môi trường. Thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, NAFOSTED đã kết nối các nhóm nghiên cứu mạnh trong nước với nhiều đối tác uy tín ở châu Âu, châu Á và châu Úc, góp phần nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế. Về định hướng sắp tới, Quỹ đặt mục tiêu xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu chất lượng cao, gắn kết với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, phấn đấu đưa Việt Nam vào Top 3 ASEAN về công bố quốc tế, Top 4 về H-index, đồng thời tăng 15% số lượng bằng sáng chế mỗi năm. NAFOSTED sẽ ưu tiên đầu tư cho công nghệ chiến lược, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, trong đó có Đại học Sydney và các tổ chức nghiên cứu tại Úc. “NAFOSTED cam kết đồng hành cùng cộng đồng khoa học, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế để xây dựng một hệ sinh thái nghiên cứu cởi mở, sáng tạo và hội nhập,” ông Chiến khẳng định. Ông Đào Ngọc Chiến khẳng định NAFOSTED luôn đồng hành cùng các nhà khoa học Chương trình hội thảo còn ghi nhận nhiều báo cáo và thảo luận sôi nổi về hợp tác nghiên cứu đa ngành, từ phát triển vắc-xin khu vực, ứng dụng công nghệ nhập vai trong quy hoạch chống ngập, đến an ninh lương thực và sức khỏe cộng đồng. Buổi chiều, các phiên thảo luận chuyên đề đã giúp các nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách trao đổi sâu hơn về cơ chế kết nối, huy động nguồn lực và phát huy tác động xã hội của nghiên cứu. Hội thảo Đổi mới sáng tạo Sydney – Việt Nam 2025 khép lại bằng phiên giao lưu kết nối, mở ra nhiều triển vọng hợp tác mới. Sự kiện được kỳ vọng sẽ trở thành cầu nối bền chặt cho cộng đồng học thuật và doanh nghiệp hai nước, cùng chung tay giải quyết các thách thức khu vực và toàn cầu, hướng tới phát triển bền vững và thịnh vượng chung. Các đại biểu tham dự hội thảo chụp ảnh lưu niệm  

Lên đầu trang