Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Tên tác giả: admin

Sự kiện, Tin tức

NAFOSTED tổ chức Hội thảo khoa học về quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí điều chuyển từ Quỹ KH&CN của doanh nghiệp

Ngày 10 tháng 10 năm 2025, tại trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ, tòa nhà Cục Đổi mới sáng tạo, trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ KH&CN năm 2025, nhóm thực hiện đã tổ chức Hội thảo khoa học với tiêu đề “Xây dựng giải pháp, phương án quản lý tài chính, tổ chức thực hiện việc sử dụng nguồn kinh phí nhận điều chuyển từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp về Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia”. Hội thảo có sự tham dự của các nhà khoa học, đại diện doanh nghiệp, các cơ quan quản lý và thành viên nhóm nghiên cứu của đề tài. Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Nguyễn Thị Mỹ An – Trưởng phòng Phòng Quản lý nghiên cứu ứng dụng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và sử dụng nguồn kinh phí điều chuyển từ Quỹ KH&CN của doanh nghiệp – một công cụ chính sách có ý nghĩa trong việc huy động nguồn lực xã hội cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để cung cấp bức tranh toàn diện nội dung chuyên môn, Hội thảo công bố danh mục bài báo/báo cáo trình bày theo chương trình, tiêu biểu, như: Cơ chế quản lý nguồn kinh phí điều chuyển từ doanh nghiệp về Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia: Thực trạng và giải pháp Xác định mục tiêu và tiêu chí đánh giá quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí nhận điều chuyển từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp về Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia Thực trạng sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ tại Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng quốc gia Việt Nam: Thuận lợi, khó khăn và kiến nghị Thực trạng sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ tại Tổng công ty viễn thông MobiFone: Khó khăn, khoảng trống và chính sách nghiên cứu Giải pháp hài hòa mục tiêu doanh nghiệp và chức năng tài trợ của quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia trong sử dụng nguồn vốn điều chuyển từ Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế tài chính cho nguồn kinh phí điều chuyển từ doanh nghiệp: Giải pháp tháo gỡ nút thắt Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với nguồn kinh phí điều chuyển từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp về Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia. Hình 1. ThS. Đỗ Thị Kiều Trang – Học viện Phụ nữ trình bày tham luận Các đại biểu tham dự đã trao đổi, thảo luận sôi nổi về tính khả thi của các đề xuất, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho việc hoàn thiện nội dung nghiên cứu của đề tài. Các ý kiến tập trung vào yêu cầu cần có cơ chế riêng cho nguồn vốn điều chuyển, đảm bảo quyền và lợi ích của doanh nghiệp điều chuyển kinh phí đồng thời phát huy vai trò tài trợ công của NAFOSTED. Bên cạnh đó, Hội thảo cũng đề xuất các hoạt động hợp tác giữa cơ quan quản lý khoa học và doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quản quản lý và đánh giá khoa học của doanh nghiệp. Trong khuôn khổ thực hiện đề tài, căn cứ Thư mời được gửi tới các tổ chức chủ trì, các nhà khoa học, đại diện các doanh nghiệp có nguồn kinh phí điều chuyển, các báo cáo gửi trước hạn, phản biện nội dung và biên tập theo chuẩn học thuật. Kết quả Hội thảo  đã tuyển chọn, xuất bản 21 bài viết tiêu biểu, có chất lượng để phục vụ công tác tham khảo chuyên môn và hoàn thiện báo cáo tổng hợp của đề tài. Hình 2. Các đại biểu chụp ảnh giao lưu. Hội thảo khép lại trong không khí trao đổi học thuật nghiêm túc, hợp tác cởi mở, góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện các đề xuất, giải pháp của đề tài – hướng tới mục tiêu sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực xã hội hóa cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia./. Nguồn: TS. Nguyễn Minh Quân, Chủ nhiệm đề tài  

Tin tức

NAFOSTED tạo đột phá: Rút ngắn thời gian xét duyệt nhiệm vụ KH&CN từ 2 năm xuống 4 tháng

Từ chỗ phải chờ tới hai năm để được cấp kinh phí, nay các nhà khoa học chỉ mất 4 tháng để nhận nguồn lực triển khai đề tài. Đây không chỉ là bước cải cách thủ tục, mà còn là cuộc cách mạng trong tư duy quản lý khoa học và công nghệ (KH&CN), mở đường cho hệ sinh thái nghiên cứu và đổi mới sáng tạo (ĐMST) Việt Nam phát triển mạnh mẽ, hội nhập sâu hơn với thế giới. PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia (NAFOSTED) trao đổi với phóng viên Trung tâm Truyền thông KH&CN. Hợp nhất đầu mối, tạo sức mạnh quản lý thống nhất Trao đổi với phóng viên Trung tâm Truyền thông KH&CN, PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED cho biết: “Trước đây, ngoài NAFOSTED, Bộ KH&CN còn có các đơn vị sự nghiệp và các văn phòng chương trình quốc gia cùng tham gia xét duyệt, tài trợ các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN. Điều này nhiều khi dẫn đến sự phân tán nguồn lực, thiếu đồng bộ trong quản lý”. Theo định hướng tinh gọn bộ máy và triển khai Luật KH,CN&ĐMST, Bộ KH&CN đã hợp nhất ba đầu mối lớn quản lý ngân sách KH&CN cấp quốc gia về một mối duy nhất – NAFOSTED. Theo ông Đào Ngọc Chiến, “Sứ mệnh mới của Quỹ không chỉ là tài trợ, mà còn tổng hợp, điều phối toàn bộ nguồn kinh phí nghiên cứu quốc gia – từ nghiên cứu cơ bản, ứng dụng đến sản xuất thử nghiệm”. Sự thay đổi này không chỉ mang ý nghĩa tổ chức, mà còn là bước đi chiến lược, tạo ra sự thống nhất trong chính sách, chuyên nghiệp hóa quy trình và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước cho KH&CN. Theo đó, NAFOSTED trở thành đầu mối trung tâm, góp phần điều phối các dòng chảy tài chính một cách khoa học, minh bạch và hiệu quả, bên cạnh các quỹ của bộ, ngành và địa phương. Chấp nhận rủi ro: Cởi trói tư duy, khuyến khích đột phá Chia sẻ về cơ chế chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, ông Đào Ngọc Chiến cho biết, nghiên cứu khoa học, về bản chất, luôn tiềm ẩn sự không chắc chắn, yếu tố bất định. Việc quá chú trọng vào thành công tuyệt đối đã vô hình trung tạo ra một rào cản tâm lý, khiến các nhà khoa học ngần ngại theo đuổi những ý tưởng táo bạo. “Khái niệm chấp nhận rủi ro đã được nhắc đến nhiều, nhưng đến nay mới chính thức được luật hóa. Nếu nhà khoa học làm đúng quy trình, chi tiêu hợp lý, nỗ lực hết sức mà vì yếu tố khách quan đề tài không đạt kết quả cuối cùng, thì đó được xem là rủi ro trong nghiên cứu. Khi đó, kinh phí đã sử dụng hợp lý sẽ không bị thu hồi, và nhà khoa học không bị xử lý chế tài,” ông Đào Ngọc Chiến giải thích. Đây là bước tiến lớn trong tư duy quản lý khoa học, cởi trói hoàn toàn về tâm lý, giúp nhà khoa học mạnh dạn đề xuất các ý tưởng lớn, có tính đột phá, thậm chí “xa tầm với”. “Nếu chỉ hoạt động trong vùng an toàn thì sẽ không bao giờ có đột phá. Chấp nhận rủi ro có kiểm soát chính là tiền đề cho những thành tựu khoa học đỉnh cao,” Giám đốc NAFOSTED nhấn mạnh. 4 tháng xét duyệt: Cuộc cách mạng về tốc độ và hiệu quả Trước đây, quy trình cấp kinh phí có thể kéo dài tới 2 năm, khiến nhiều ý tưởng tiên phong lỗi thời, mất cơ hội ứng dụng. Với Luật KH,CN&ĐMST, cùng quyết tâm cải cách, NAFOSTED đặt mục tiêu rút ngắn toàn bộ quy trình xuống chỉ còn 4 tháng – một “cuộc cách mạng về tốc độ” trong quản lý khoa học – rút ngắn gần 6 lần so với trước đây. Để đạt được mục tiêu tham vọng này, NAFOSTED đang tiến hành nhiều cải cách đồng bộ. Cụ thể, Quỹ đã số hóa toàn diện quy trình tài trợ. Toàn bộ hồ sơ, đánh giá phản biện kín, xét duyệt hội đồng đều diễn ra trực tuyến trên nền tảng quản lý thống nhất của Bộ KH&CN. Đơn vị chủ trì chỉ cần gặp Quỹ một lần duy nhất để ký hợp đồng. Về chủ động về tài chính, Quỹ sẽ được cấp kinh phí từ đầu năm. Thay vì chờ đợi phân bổ theo kế hoạch, Quỹ có thể cấp tiền cho đề tài ngay sau khi hợp đồng được ký thông qua lệnh chi tiền. Nguồn lực tài chính luôn sẵn sàng, không còn độ trễ. Cùng với đó, cơ chế “khoán chi đến sản phẩm cuối cùng” thay thế mô hình tiền kiểm cũ. Nhà khoa học được trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm, còn Quỹ tập trung giám sát, đánh giá đầu ra, hiệu quả và tác động của nghiên cứu giúp nhà khoa học tập trung hoàn toàn vào chuyên môn. Doanh nghiệp là trung tâm của liên kết ba nhà Với quan điểm “doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia”, Quỹ đẩy mạnh mô hình liên kết ba nhà: Nhà nước – Nhà khoa học – Doanh nghiệp. “Chúng tôi thấy nhiều doanh nghiệp có nhu cầu công nghệ nhưng không biết tìm đến ai, trong khi nhiều viện, trường có năng lực lại chưa tìm được đầu ra. Quỹ sẽ chủ động hơn nữa trong việc tạo cơ hội, thậm chí đi thúc đẩy việc kết nối giữa các bên”, ông Đào Ngọc Chiến chia sẻ. Thông qua vai trò cầu nối này, các kết quả nghiên cứu sẽ được định hướng giải quyết các bài

Thông tin kết quả thực hiện nhiệm vụ

Đột phá công nghệ giao diện não-máy tính: Cơ sở dữ liệu điện não đầu tiên của Việt Nam và ứng dụng hỗ trợ người bệnh đột quỵ

Đề tài cấp nhà nước do PGS.TS. Phạm Ngọc Hùng (Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN) chủ trì đã tạo ra bước tiến quan trọng trong lĩnh vực công nghệ y sinh, mở ra triển vọng mới cho việc điều khiển thiết bị bằng sóng điện não qua cơ chế tưởng tượng vận động và hỗ trợ phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân đột quỵ nhẹ. Cơ sở dữ liệu sóng điện não đầu tiên tại Việt Nam Đề tài mã số KC-4.0-07/19-25 đã hoàn thành việc xây dựng bộ cơ sở dữ liệu gồm 12.840 bản ghi tín hiệu sóng điện não video theo các lứa tuổi phân bố trong dân cư, dựa theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là cơ sở dữ liệu quốc gia đầu tiên của Việt Nam được thu thập trên người Việt Nam, có thể tồn tại các đặc tính khác biệt về tín hiệu điện não so với các dân tộc khác. Bộ dữ liệu này vượt xa mục tiêu ban đầu đề ra (10.000 bản ghi), tạo nền tảng vững chắc cho các nghiên cứu và ứng dụng công nghệ giao diện não-máy tính (BCI – Brain-Computer Interface) trong tương lai. Các tình nguyện viên đang thực hiện bài đo. Công nghệ điều khiển thiết bị bằng sóng não Nhóm nghiên cứu đã phát triển thành công bộ công cụ phân tích dữ liệu sóng điện não cho phép điều khiển các thiết bị ngoại vi thông qua tín hiệu não bộ, bao gồm: Chuyển đổi ký tự bàn phím: Hỗ trợ 26 ký tự tiếng Anh và bảng chữ cái tiếng Việt Điều khiển chuột máy tính: Các thao tác lên, xuống, trái, phải và nhấp chuột Đây là bước tiến quan trọng, mở ra khả năng hỗ trợ người khuyết tật vận động có thể tương tác với máy tính và môi trường xung quanh chỉ bằng tưởng tượng vận động. Hệ thống phục hồi chức năng cho bệnh nhân đột quỵ Một trong những thành tựu nổi bật nhất của đề tài là việc phát triển hệ thống hỗ trợ phục hồi chức năng vận động cho người trưởng thành bị đột quỵ não, bao gồm phần mềm xử lý tự động và thiết bị hỗ trợ kết nối tương ứng. Hệ thống vSpeller: Đánh vần tiếng Việt bằng sóng não Lần đầu tiên tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã tạo ra hệ thống đánh vần hoàn chỉnh chỉ dựa trên công nghệ BCI, cho phép người sử dụng đánh vần các ký tự tiếng Việt (cũng như tiếng Anh). Giao diện phần mềm được thiết kế dựa trên nguyên tắc của hệ thống Berlin BCI nhưng được phát triển phù hợp với đặc thù tiếng Việt, có tính đến tần số xuất hiện của các ký tự. Hệ thống còn được tích hợp mô hình ngôn ngữ để gợi ý và tăng tốc khả năng đánh vần. Hệ BCI vSpeller phục vụ cho việc gõ văn bản. Hệ thống mBCI Controller: Điều khiển đa chiều bằng tưởng tượng vận động Hệ thống mBCI Controller đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng: Cải thiện độ chính xác phân loại: Cấu hình phân đoạn thời gian 2 giây có chồng lấn 1 giây giúp tăng 2-6,5% độ chính xác trong nhận dạng tưởng tượng vận động đa lớp Phân loại bốn lớp chuyển động: Phân biệt chính xác các tưởng tượng về chuyển động tay trái, tay phải, chân và lưỡi với độ chính xác vượt top 3 cuộc thi BCI quốc tế năm 2008 Phản hồi thần kinh theo thời gian thực: Các chiến lược phản hồi dựa trên ERD/ERS giúp người dùng cải thiện hiệu suất rõ rệt sau một phiên luyện tập Trong thử nghiệm thực tế, độ chính xác mô hình cá nhân đạt trên 90% ở một số đối tượng trong giai đoạn offline. Giai đoạn online, độ chính xác trung bình đạt 63,32% khi thử nghiệm trên 5 người, với các bài đo 2 lớp đạt trên 80% ở nhiều người thử nghiệm. Hệ thống VR-BCI: Kết hợp thực tại ảo và giao diện não-máy tính Đề tài đã tích hợp hoàn chỉnh công nghệ thực tại ảo (VR) và công nghệ BCI, thiết kế các bài tập phù hợp để triển khai hệ thống theo thời gian thực. Hệ thống VR-BCI đã được thử nghiệm tại bệnh viện trên 30 bệnh nhân đột quỵ, cho thấy tính khả thi cao trong việc áp dụng vào thực tiễn lâm sàng. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Đề tài không chỉ tạo ra cơ sở dữ liệu quốc gia đầu tiên về sóng điện não mà còn phát triển các hệ thống ứng dụng thực tế, được kiểm chứng tại bệnh viện. Các kết quả nghiên cứu đã được công bố tại nhiều hội nghị và tạp chí khoa học uy tín, khẳng định vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ y sinh tiên tiến. Với những thành tựu này, đề tài đã mở ra hướng nghiên cứu mới, tạo nền tảng cho các ứng dụng công nghệ BCI phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là hỗ trợ người khuyết tật và bệnh nhân đột quỵ tái hòa nhập cuộc sống. Đề tài KC-4.0-07/19-25 do PGS.TS. Phạm Ngọc Hùng chủ trì là một trong những đề tài trọng điểm cấp nhà nước về công nghệ y sinh. Nguồn: Phòng Quản lý Phát triển công nghệ

Sự kiện, Tin tức

Tọa đàm tại Nhật Bản thúc đẩy hợp tác phát triển công nghệ chiến lược

Ngày 2/10/2025, tại Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, đã diễn ra Tọa đàm “Hợp tác Nhà nước – Nhà khoa học – Doanh nghiệp, thúc đẩy nghiên cứu phát triển công nghệ chiến lược – Chip Edge AI”. Sự kiện do Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản phối hợp cùng FPT Japan tổ chức, với sự tham dự của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia – ông Đào Ngọc Chiến, các chuyên gia, trí thức, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tại tọa đàm, ông Đào Ngọc Chiến  đã có phần trình bày quan trọng, định hướng phát triển công nghệ chiến lược của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Ông Chiến nhấn mạnh, các công nghệ chiến lược như AI, bán dẫn, năng lượng mới không chỉ có giá trị kinh tế mà còn mang ý nghĩa địa chính trị, quyết định vị thế quốc gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam cần coi sản phẩm công nghệ chiến lược là “nền tảng – động lực – đột phá” cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy nghiên cứu cơ bản, ứng dụng, thương mại hóa và khởi nghiệp công nghệ cao. Ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia, phát biểu tại sự kiện Theo ông Chiến, Chính phủ đã xác định lộ trình phát triển công nghệ chiến lược giai đoạn 2025–2026, lựa chọn một số sản phẩm thí điểm như mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt, thiết bị & hệ thống 5G/6G, AI camera xử lý tại biên, UAV/Drone. Đây sẽ là những hình mẫu, tạo niềm tin và khơi thông chính sách cho các chương trình nghiên cứu tiếp theo. Đặc biệt, ông Chiến đề cao mô hình “Triple Helix” (Nhà nước – Viện/trường – Doanh nghiệp) trong phát triển công nghệ, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm của đổi mới sáng tạo. Ông cũng khẳng định vai trò quan trọng của trí thức Việt Nam toàn cầu – với khoảng 600.000 người đang làm việc, học tập tại các viện nghiên cứu và tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới – như một nguồn lực chiến lược để kết nối, chuyển giao công nghệ và tri thức cho Việt Nam. “Sản phẩm công nghệ chiến lược là chìa khóa để Việt Nam bứt phá. Trí thức Việt toàn cầu là nguồn lực vô giá để biến mục tiêu thành hiện thực”, ông Chiến khẳng định, đồng thời kêu gọi sự chung tay của cộng đồng chuyên gia, doanh nghiệp và nhà khoa học trong và ngoài nước để kiến tạo tương lai công nghệ chiến lược cho Việt Nam. Phát biểu chỉ đạo tại Tọa đàm, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: công nghệ bán dẫn và AI là lĩnh vực mũi nhọn, Việt Nam cần tận dụng cơ hội để bước vào “cuộc chơi toàn cầu” với tâm thế chủ động. Bộ trưởng khẳng định Bộ KH&CN sẽ đồng hành cùng các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và trí thức kiều bào, tạo hành lang pháp lý, cơ chế đặt hàng, cũng như nguồn lực hỗ trợ để biến các ý tưởng và kết quả nghiên cứu thành sản phẩm cụ thể, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao vị thế quốc gia. Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng chụp ảnh cùng các đại biểu Sự kiện là cơ hội tạo nền tảng thúc đẩy các ý tưởng hợp tác cụ thể, từ nghiên cứu, thử nghiệm đến ứng dụng và thương mại hóa sản phẩm công nghệ chiến lược, góp phần hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ cho Việt Nam. Với sự cam kết đồng hành của Bộ Khoa học và Công nghệ, các viện nghiên cứu, doanh nghiệp trong và ngoài nước, cùng sự chung tay của cộng đồng trí thức kiều bào, các sản phẩm công nghệ chiến lược được kỳ vọng sẽ trở thành động lực quan trọng để Việt Nam bứt phá trong giai đoạn phát triển mới. Nguồn: phòng Quản lý nhiệm vụ Hợp tác quốc tế

Thông báo, Tin tức

Thông báo về việc nộp Báo cáo định kỳ đối với các đề tài hợp tác quốc tế do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ

Theo Quy định về việc tổ chức thực hiện đề tài hợp tác quốc tế do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) tài trợ, và các hợp đồng nghiên cứu khoa học đã ký giữa Quỹ với các tổ chức chủ trì, các chủ nhiệm đề tài, Quỹ tổ chức đánh giá định kỳ tình hình thực hiện các đề tài hợp tác quốc tế do Quỹ tài trợ. Đề nghị các chủ nhiệm đề tài và tổ chức chủ trì của các đề tài hợp tác NAFOSTED – FWO (Bỉ) 2023 và đề tài hợp tác NAFOSTED – DFG (Đức) 2023 lập báo cáo định kỳ tình hình thực hiện đề tài, tình hình sử dụng kinh phí của đề tài (phần kinh phí đã thanh toán tại kho bạc) và gửi tới Quỹ. Kết quả đánh giá định kỳ là căn cứ để quyết định việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Cách thức nộp báo cáo: xem tại đây Truy cập vào hệ thống quản lý đề tài trực tuyến (OMS) của Quỹ thông qua tài khoản cá nhân, cập nhật thông tin báo cáo theo hướng dẫn và gửi tới Quỹ. Link truy cập hệ thống OMS: https://e-services.nafosted.gov.vn/ Sau khi hoàn thiện báo cáo trên hệ thống OMS, nhà khoa học gửi hồ sơ điện tử (ký số) tới Quỹ. Ký số chữ ký của chủ nhiệm đề tài, lãnh đạo tổ chức chủ trì và tổ chức chủ trì lên tệp hồ sơ (bao gồm báo cáo chuyên môn và báo cáo tài chính), tải lên hệ thống OMS. (Lưu ý: Quỹ không tiếp nhận báo cáo định kỳ bằng bản giấy theo thông báo tại https://nafosted.gov.vn/trien-khai-ky-dien-tu-trong-qua-trinh-thuc-hien-tai-tro-ho-tro-cua-quy-phat-trien-khcn-quoc-gia/) Thời hạn tiếp nhận báo cáo: Trước 17h00 ngày 15/10/2025 (Thứ tư) (Các chủ nhiệm đề tài lưu ý: hệ thống OMS sẽ tự động đóng sau thời gian trên). Cơ quan điều hành Quỹ sẽ tiến hành kiểm tra trực tiếp tại đơn vị đối với một số đề tài trong trường hợp cần thiết. Quỹ thông báo kết quả đánh giá định kỳ tới các tổ chức chủ trì và chủ nhiệm đề tài trong vòng 02 tháng kể từ ngày kết thúc đợt tiếp nhận báo cáo.  

Sự kiện, Tin tức

NAFOSTED đồng hành cùng hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam

Ngày 27/9/2025, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đăng cai tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia SIEV-2025 với chủ đề “Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam: Cơ hội – Thách thức – Thành tựu”. Chương trình diễn ra dưới sự chỉ đạo của Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (NATECH) và Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Đây là sự kiện học thuật và kết nối trọng điểm, nằm trong khuôn khổ Đề án 844 của Bộ Khoa học và Công nghệ được tổ chức với mục tiêu kiến tạo diễn đàn khoa học – học thuật – kết nối, nơi các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp, nhà đầu tư, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước có cơ hội gặp gỡ, trao đổi tri thức, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn và mở rộng các mối quan hệ hợp tác chiến lược. Chương trình thu hút hơn 500 đại biểu với hơn 100 báo cáo khoa học, trong đó có 5 tham luận tại phiên toàn thể và 26 tham luận chuyên đề, tập trung vào các lĩnh vực then chốt như chính sách, công nghệ, tài chính, mô hình hệ sinh thái và văn hóa khởi nghiệp. Toàn cảnh Hội thảo. Nguồn: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành. Phát biểu tại Hội thảo, PGS.TS. Đào Ngọc Chiến – Giám đốc Quỹ NAFOSTED – khẳng định hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận sau hơn một thập kỷ phát triển và đang bước vào giai đoạn cần sự liên kết đa chiều để vươn tầm quốc tế. Từ những bước đi khiêm tốn ban đầu, Việt Nam hiện đã có hơn 3.800 startup, hàng trăm tổ chức hỗ trợ và nhiều quỹ đầu tư trong và ngoài nước. Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã trở thành một phong trào xã hội rộng khắp, thu hút sự tham gia mạnh mẽ của giới trẻ, các trường đại học, viện nghiên cứu và cộng đồng doanh nghiệp. Giám đốc Quỹ NAFOSTED phát biểu tại Hội thảo. Nguồn: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành. Theo định hướng của Bộ Khoa học và Công nghệ, đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu nằm trong nhóm 40 quốc gia hàng đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, có ít nhất 40% doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới sáng tạo, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp trên 55% vào tăng trưởng, đổi mới sáng tạo đóng góp hơn 1/3 GDP, và số bằng sáng chế tăng trung bình 16–18% mỗi năm, trong đó 8–10% được thương mại hóa. Để hiện thực hóa, năm nhóm giải pháp lớn đã được xác định gồm: hoàn thiện thể chế chính sách; phát triển thiết chế trung gian; đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu – phát triển và thương mại hóa; thúc đẩy hội nhập quốc tế; và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong tiến trình này, NAFOSTED giữ vai trò cầu nối giữa nghiên cứu khoa học và hệ sinh thái khởi nghiệp. Quỹ tập trung vào ba định hướng lớn: nâng cao chất lượng nghiên cứu gắn với ứng dụng để tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới; đồng hành cùng doanh nghiệp trong đổi mới công nghệ, đặc biệt các dự án rủi ro cao nhưng có khả năng đột phá lớn; và hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học, viện nghiên cứu thông qua đào tạo huấn luyện viên, thúc đẩy doanh nghiệp spin-off và các cuộc thi ý tưởng sáng tạo. Giám đốc NAFOSTED nhấn mạnh, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội quan trọng như sự ưu tiên mạnh mẽ từ chính sách, xu thế công nghệ của CMCN 4.0 và sự quan tâm ngày càng lớn của nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, đi kèm với đó là thách thức về nguồn vốn đầu tư mạo hiểm trong nước còn hạn chế, nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được nhu cầu và hệ thống pháp lý cần tiếp tục hoàn thiện. Ông cho rằng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo không thể phát triển bền vững nếu thiếu sự liên kết giữa Nhà nước, nhà trường, nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Với tinh thần đó, NAFOSTED cam kết đồng hành trong triển khai các chương trình quốc gia, hỗ trợ trường đại học và viện nghiên cứu đưa công nghệ từ giảng đường đến thị trường, cùng doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời hợp tác cùng cộng đồng đầu tư để phát hiện và nuôi dưỡng những ý tưởng khởi nghiệp đột phá. Các đại biểu tham gia Hội thảo. Nguồn: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành. Trong khuôn khổ hội thảo, Ban Tổ chức cũng tổng kết hoạt động Đề án 844 với Lễ trao giấy chứng nhận “Huấn luyện viên khởi nghiệp đổi mới sáng tạo” và vinh danh các chuyên gia thực hiện nhiệm vụ 844.NV02.NTTU.02-25. Sau bốn tháng triển khai, nhiệm vụ đã tổ chức thành công chuỗi chương trình đào tạo, huấn luyện và kết nối chuyên gia, góp phần hình thành mô hình đào tạo có tính ứng dụng cao cho cộng đồng khởi nghiệp. Kết quả này không chỉ thể hiện nỗ lực của Trường Đại học Nguyễn Tất Thành và đội ngũ chuyên gia mà còn cho thấy vai trò đồng hành quan trọng của Quỹ NAFOSTED trong việc gắn kết nghiên cứu với thực tiễn, thúc đẩy đào tạo nhân lực và hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Sự hiện diện và cam kết của NAFOSTED

Kêu gọi đề xuất, Thông báo, Tin tức

Thông báo tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia

Thực hiện Quyết định số 2848/QĐ-BKHCN ngày 23 tháng 9 năm 2025 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt Danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặt hàng thuộc Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng”, mã số: KC.05/21-30 (đợt 2) để tuyển chọn thực hiện, Bộ Khoa học và Công nghệ thông báo như sau: 1. Phương thức tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 20/2023/TT-BKHCN ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng ngân sách nhà nước (Thông tư số 20/2023/TT-BKHCN). 2. Hồ sơ đăng ký tham gia tuyển chọn được chuẩn bị theo hướng dẫn tại Thông tư số 20/2023/TT-BKHCN. 3. Việc lập dự toán, định mức xây dựng dự toán ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ thực hiện theo quy định tại Thông tư số 03/2023/TT-BTC ngày 10 tháng 01 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ và Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08 tháng 5 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước và các quy định có liên quan. 4. Nơi nhận hồ sơ: Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ, số 113 Trần Duy Hưng, phường Yên Hòa, Thành phố Hà Nội. 5. Thời điểm bắt đầu nhận Hồ sơ: ngày 29 tháng 9 năm 2025 6. Thời hạn nhận hồ sơ: Trước 17 giờ 00 ngày 28 tháng 10 năm 2025, theo dấu đến của Bộ Khoa học và Công nghệ (trường hợp nộp trực tiếp) hoặc theo dấu bưu chính nơi gửi (trường hợp gửi qua bưu chính).

Kết quả tài trợ nổi bật, Kết quả tài trợ nổi bật - NCCB KHTN

Nghiên cứu phát triển phương pháp phân tích, quan trắc và đánh giá rủi ro do các chất nhóm phthalate và siloxane tích lũy trong môi trường không khí và nước tại khu vực Hà Nội, Việt Nam

Nội dung của cụm ba công trình góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn cấp bách mang tính toàn cầu hiện nay là ô nhiễm môi trường. Trong đó ô nhiễm môi trường do sự phát tán của các hóa chất tổng hợp đã được chứng minh có độc tính gây rối loạn nội tiết mới nổi như nhóm phthalate và siloxane đang thu hút được sự quan tâm rất lớn của cộng đồng trong những năm gần đây. Phthalate (ester của acid phthalic) và siloxane (silic hữu cơ có chứa nhóm methyl) là hai nhóm chất bao gồm nhiều đồng loại có cấu trúc phức tạp và được biết đến là các phụ gia được sử dụng rất phổ biến với hàm lượng lớn (lên tới vài phầm trăm về khối lượng) trong nhiều sản phẩm như: các vật liệu bằng nhựa, vật dụng gia đình, đồ chơi trẻ em, sản phẩm chăm sóc cá nhân, mỹ phẩm, dược phẩm và thẩm mỹ…. Do được sử dụng rộng rãi, các hóa chất này đã phát tán vào các môi trường khác nhau và thậm chí đi vào chuỗi thức ăn của con người và động vật. Đáng quan tâm hơn bởi gần đây các nhà khoa học đã tìm thấy những bằng chứng về độc tính của chúng đối với động vật trong phòng thí nghiệm. Tác động chính của các nhóm phthalate và siloxane là làm thay đổi hệ nội tiết của động vật thí nghiệm như hormone sinh sản (estrogen), hormone sinh trưởng và hệ vận động. Tuy nhiên, cho đến nay những hiểu biết về mức độ phân bố trong môi trường của nhóm hóa chất này vẫn còn rất hạn chế do thiếu các phương pháp đồng bộ và năng lực phân tích chưa đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, việc lựa chọn hướng nghiên cứu xây dựng các phương pháp phân tích hiện đại và chính xác; khả năng xử lý và làm sạch môi trường; để nâng cao hiểu biết của cộng động về nguồn gốc, sự tích lũy, rủi ro đối với môi trường để từ đó đề ra các giải pháp nhằm quản lý, sử dụng, kiểm soát các hóa chất nhóm phthalate và siloxane một cách hiệu quả là những vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách. Hình 1: Biểu đồ phân tích thành phần chính của phthalic acid ester (phthalate và siloxane) trong không khí tại Hà Nội (Nguồn: Science of the Total Environment, 760, 143380) Công trình thứ nhất: Nội dung của nghiên cứu này phát triển phương pháp phân tích chính xác cao, hiệu quả, đồng thời 10 hợp chất nhóm phthalate và 3 hợp chất siloxane mạch vòng trong không khí ở lượng vết. Nghiên cứu đã xác định thành phần của phthalate và siloxane trong hai pha (pha hạt và pha hơi), từ đó nhóm tác giả tính toán hằng số phân bố (Kp) và hệ số phát tán (Kow) bằng phương trình bán thực nghiệm. Nhóm tác giả cũng đã đề xuất công thức ước lượng mức độ rủi ro phơi nhiễm của các hóa chất này qua con đường hít thở không khí cho các nhóm lứa tuổi khác nhau. Nghiên cứu có ý nghĩa và giá trị khoa học quan trọng trong việc phát triển các phương pháp phân tích chính xác, hiện đại; đồng thời cung cấp những hiểu biết mới về nguồn gốc phát tán, mức độ ô nhiễm trong không khí và rủi ro phơi nhiễm ở Việt Nam do các hóa chất gây rối loạn nội tiết mới nổi nhóm phthalate và siloxane. Công trình thứ hai: Trong nghiên cứu này, phương pháp chính xác để phân tích các hợp chất siloxane mạch vòng trong môi trường nước đã được phát triển thành công dựa trên thiết bị sắc ký khí ghép nối khối phổ (GC-MS) và kỹ thuật chiết pha rắn (SPE). Phương pháp phân tích có độ thu hồi cao, độ lặp lại và độ ổn định tốt, độ lệch chuẩn nhỏ, giới hạn phát hiện thấp để có thể định lượng các chất siloxane trong mẫu nước ở mức lượng vết. Nhóm tác giả đã áp dụng phương pháp phát triển được để phân tích, quan trắc mức độ phân bố của các chất siloxane mạch vòng trong các loại mẫu nước thu thập tại khu vực nội đô Hà Nội bao gồm: nước máy, nước đóng chai, nước ao hồ và nước thải (trước và sau khi xử lý). Nghiên cứu đã cung cấp bộ số liệu đáng tin cậy về mức độ ô nhiễm, bước đầu đánh giá liều lượng rủi ro phơi nhiễm siloxane qua con đường nước uống cho các nhóm lứa tuổi khác nhau và rủi ro sinh thái cho các động vật thủy sinh do sự tích lũy của siloxane trong môi trường nước. Hình 2: Mức độ ô nhiễm của phthalic acid ester (phthalate) trong các loại mẫu nước khác nhau (Nguồn: Science of the Total Environment, 788, 147831) Công trình thứ ba: Công trình là một trong những báo cáo tiên phong về đối tượng hóa chất nhóm phthalate và mẫu nước được nghiên cứu tại Việt Nam. Nghiên cứu đã phát triển phương pháp xác định đồng thời 10 chất phthalate trong mẫu nước dựa trên kỹ thuật chiết pha rắn (SPE) kết hợp với sắc ký khí ghép nối khối phổ (GC-MS). Ưu điểm của phương pháp là độ chính xác và độ ổn định cao, độ thu hồi tốt, giới hạn phát hiện thấp để có thể định danh và định lượng đồng thời 10 hợp chất nhóm phthalate trong mẫu nước ở lượng vết, tiết kiệm dung môi hữu cơ độc hại, giảm thời gian chuẩn bị mẫu và chi phí thu thập mẫu môi trường. Công trình là một trong số ít những báo cáo trên thế giới về mức độ phân bố và ô nhiễm của các

Kết quả tài trợ nổi bật

Cơ chế lan truyền ô nhiễm ven biển Nam Bộ: Giải mã nguồn gốc và tác động

Vùng biển ven bờ từ Vũng Tàu tới Kiên Giang là khu vực phát triển kinh tế – xã hội sôi động, đồng thời sở hữu hệ sinh thái phong phú của Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, khu vực này đang đối mặt với áp lực ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng từ nhiều nguồn khác nhau – đặc biệt là từ các chất dinh dưỡng (như nitơ, phosphor) và kim loại nặng (như chì, kẽm, đồng). Sự phát triển nông nghiệp thâm canh, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp và đô thị hóa đã làm gia tăng lượng chất thải và nước thải đổ ra sông, kênh rạch và cuối cùng chảy ra biển. Kết quả là chất lượng nước và trầm tích ven biển Nam Bộ suy giảm nghiêm trọng, đe dọa đến tính toàn vẹn của các hệ sinh thái ven bờ, từ rừng ngập mặn, đầm phá cho tới các rạn san hô cận bờ. Tình trạng này không chỉ tác động xấu đến đa dạng sinh học mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế và sức khỏe của hàng triệu người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh nguồn thải tại chỗ, khu vực ven biển Nam Bộ còn tiếp nhận ô nhiễm từ thượng nguồn thông qua hệ thống sông Mê Kông và sông Đồng Nai. Hai dòng sông lớn này vận chuyển phù sa và chất ô nhiễm từ lưu vực rộng hàng trăm ngàn km² trải dài qua nhiều quốc gia. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm thay đổi chế độ mưa lũ và mực nước biển dâng, cũng như tình trạng xâm nhập mặn gia tăng, cơ chế vận chuyển và lắng đọng các chất ô nhiễm ngày càng phức tạp. Các hiện tượng cực đoan – như mưa lớn, lũ lụt hay hạn mặn – có thể làm bùng phát sự cố ô nhiễm, chẳng hạn hiện tượng phú dưỡng dẫn tới “thủy triều đỏ” (tảo nở hoa) gây thiếu oxy cục bộ, hoặc sự tích tụ kim loại nặng cô đặc trong mùa khô. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải làm rõ: các chất ô nhiễm này bắt nguồn chủ yếu từ đâu, cơ chế truyền tải và tích tụ của chúng ra sao, và hệ quả lâu dài đối với môi trường – con người trong vùng là gì? Hình 1: Bản đồ khu vực nghiên cứu ven biển Nam Bộ. Hộp đỏ (trái) thể hiện vị trí Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở hạ lưu lưu vực sông Mê Công Mặc dù vấn đề ô nhiễm vùng ven biển Nam Bộ đã được nhận diện, các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào việc đánh giá hiện trạng (mức độ ô nhiễm nước, trầm tích bởi dinh dưỡng, kim loại nặng, thuốc trừ sâu, kháng sinh, vi nhựa…) hơn là giải thích nguyên nhân và cơ chế. Nhiều câu hỏi khoa học vẫn bỏ ngỏ: Ví dụ, tỉ lệ đóng góp của từng nguồn thải (nông nghiệp, đô thị, công nghiệp…) vào tổng lượng ô nhiễm là bao nhiêu? Những quá trình thuỷ động lực nào chi phối sự phân tán hay tích tụ của chất ô nhiễm trong nước biển và trầm tích? Điều kiện mùa mưa – mùa khô tác động như thế nào đến phạm vi lan truyền ô nhiễm? Và mức độ nguy hiểm sinh thái đến đâu – liệu các hệ sinh thái và chuỗi thức ăn ven biển đã bị tổn thương đáng kể hay chưa? Những khoảng trống này đòi hỏi một cách tiếp cận nghiên cứu liên ngành, kết hợp số liệu thực địa với mô hình phân tích tiên tiến để có câu trả lời toàn diện. Để giải quyết các vấn đề trên, nhóm các nhà khoa học do PGS.TS. Triệu Ánh Ngọc chủ trì đề tài “Nghiên cứu cơ chế truyền tải, tích tụ và phân tán chất ô nhiễm vùng biển ven bờ từ Vũng Tàu tới Kiên Giang” đã triển khai đề tài nghiên cứu công phu trong giai đoạn 2021–2025. Đề tài áp dụng cách tiếp cận đa ngành, lần đầu kết hợp đồng bộ các phương pháp truyền thống và hiện đại tại Việt Nam nhằm “giải mã” bài toán ô nhiễm ven biển Nam Bộ. Cụ thể, bên cạnh công tác khảo sát thực địa, thu thập hàng trăm mẫu nước, trầm tích và sinh vật tại các cửa sông, vùng ven bờ và gần bờ, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các kỹ thuật phân tích tối tân: phân tích đồng vị bền (δ¹⁵N, δ¹³C trong hợp chất nitơ, carbon; tỷ lệ ²⁰⁶Pb/²⁰⁷Pb trong chì) để truy tìm dấu vết nguồn gốc chất ô nhiễm, cùng với mô hình thủy động lực – chất lượng nước 3 chiều để mô phỏng quá trình lan truyền trong các kịch bản khác nhau. Song song đó, công cụ toán MixSIAR (mô hình trộn Bayesian) được triển khai nhằm định lượng phần trăm đóng góp của từng nguồn ô nhiễm vào môi trường thông qua dữ liệu đồng vị. Đáng chú ý, kỹ thuật thủy văn đồng vị được áp dụng lần đầu cho vùng ven biển Việt Nam đã cho phép phân biệt tương đối rõ dấu hiệu ô nhiễm từ phân bón nông nghiệp, nước thải sinh hoạt hay chất thải công nghiệp dựa trên các giá trị đặc trưng của δ¹⁵N và δ¹³C. Cách tiếp cận liên ngành và tích hợp này tạo nên một khung nghiên cứu toàn diện, vừa có khả năng lượng hóa mức độ ô nhiễm, vừa truy nguyên được nguồn gốc và cơ chế lan truyền các chất ô nhiễm. Kết quả nghiên cứu đã phác họa chi tiết cơ chế truyền tải, phân tán và tích tụ các chất ô nhiễm tại vùng biển ven bờ Nam Bộ. Hệ thống sông ngòi dày đặc đóng vai

Kết quả tài trợ nổi bật

Bể chứa cacbon hữu cơ trong đất vùng đồng bằng Sông Hồng: Cơ sở quan trọng giám sát chất lượng đất và phát thải khí nhà kính từ đất

Xác định bể chứa cacbon hữu cơ trong đất: Cơ sở tham chiếu biến động SOC trong tương lai Nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và hướng tới mục tiêu Net Zero năm 2050 của Việt Nam, đề tài “Nghiên cứu xác định bể chứa cacbon hữu cơ trong đất vùng đồng bằng Sông Hồng phục vụ giám sát chất lượng đất và phát thải khí nhà kính từ đất”, mã số: ĐTĐL.CN-49/21, do TS. Nguyễn Thanh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài; Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là Cơ quan chủ trì, đã được triển khai từ năm 2021 và hoàn thành đầu năm 2025 với những đóng góp mới mang tính đột phá. Đất vừa là bể chứa vừa là một nguồn phát thải cacbon trên cạn, có ảnh hưởng lớn đến chu trình cacbon toàn cầu. Cacbon hữu cơ trong đất (SOC) đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với độ phì của đất và chu trình cacbon toàn cầu (Peng-Tao và nnk, 2014). Vì vậy, SOC đã được lựa chọn làm chỉ thị để đánh giá sức khỏe đất và chỉ thị để theo dõi, giám sát thực hiện một trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Để theo dõi, giám sát và đánh giá sự thay đổi trữ lượng SOC ở quy mô vùng cần thiết xây dựng đường cơ sở (baseline) trữ lượng SOC hay sự phân hóa không gian trữ lượng SOC tham chiếu ở các bể cacbon trong đất, đặc biệt ở đất canh tác nông nghiệp thay đổi hàng năm. Đây là cơ sở để sau 5 năm hay 10 năm và hơn nữa trong tương lai cho phép chúng ta đánh giá sự tăng hay giảm trữ lượng SOC ở các bể cacbon, cung cấp cơ sở xác định lượng khí nhà kính phát thải từ đất sản xuất nông nghiệp thông qua công thức chuyển đổi, từ đó có thể hình thành tín chỉ cacbon từ đất sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, sự biến động SOC cho phép đánh giá sơ bộ chất lượng đất thông qua các chỉ tiêu như hàm lượng đạm… Việc giám sát biến động trữ lượng SOC hiệu quả cho phép xác định các biện pháp quản lý đất đai hợp lý, nhằm vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa bảo tồn SOC, tăng cường cố định và lưu trữ cacbon trong đất từ khí quyển. Vùng đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) bao gồm 11 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình), được xem là một trong các vựa lúa của Việt Nam. Vùng ĐBSH được đánh giá bị ảnh hưởng nặng nề dưới tác động của BĐKH và nước biển dâng; trong đó, các loại sử dụng đất và hoạt động nhân sinh trên đất có thể được xem là là đối tượng chịu tác động mạnh nhất. Việc xác định các bể chứa cacbon trong đất nông nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng là một trong những bước quan trọng trong giám sát chất lượng đất và phát thải khí nhà kính từ đất. Những đóng góp mới của đề tài Về khoa học, ở quy mô điểm, đề tài đã lần đầu tiên ứng dụng thành công nghệ quang phổ ở dải sóng khả kiến và cận hồng ngoại để đo tính hàm lượng cacbon hữu cơ trong mẫu đất vùng đồng bằng Sông Hồng, Việt Nam với sự hỗ trợ của mô hình toán học trong tiền xử lý dữ liệu phổ, lập mô hình và phân chia tập dữ liệu mẫu. Ở quy mô vùng, đề tài đã lần đầu tiên ứng dụng mô hình trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu viễn thám và một số dữ liệu sẵn có khác ước tính sự phân bố hàm lượng cacbon hữu cơ ở tầng đất 0 – 20 cm ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Việt Nam. Công nghệ quang phổ ở dải sóng khả kiến và cận hồng ngoại để đo tính hàm lượng cacbon hữu cơ trong mẫu đất có thể mở ra hướng nghiên cứu ứng dụng mới. Ngoài ra, đề tài đã xác định được chủng vi khuẩn 457-22, K8.4 và chủng nấm 471b-01, 578.2-02 có hoạt tính cao trong phân hủy chất hữu cơ trong đất vùng nghiên cứu. Hình 1. Minh họa dữ liệu phổ thô của 10 mẫu đất và kết quả tiền xử lý phổ của 15 phương pháp, hàm lượng SOC (%) được thể hiện theo màu Về mặt thực tiễn, đề tài đã lần đầu tiên xác định các bể SOC cho các loại đất canh tác nông nghiệp chính vùng đồng bằng Sông Hồng, Việt Nam, xây dựng đường cơ sở trữ lượng cacbon hữu cơ trong đất ở tầng đất 0 – 20 cm, 0 – 30 cm, ở lớp đất 0 – 1 m cho các bể cacbon đất chính phục vụ việc giám sát trữ lượng SOC, giám sát chất lượng đất thông qua hàm lượng đạm tổng số. Nhiệm vụ đã xác định được khối lượng cacbon hữu cơ trong đất ở tầng đất 0 – 20 cm, 0 – 30 cm, trên cơ sở đó xác định tiềm năng cố định cacbon của các bể cacbon đất chính ở lớp đất 0 – 30 cm. Đề tài đã đề xuất 03 nhóm giải pháp nâng cao hàm lượng cacbon hữu cơ trong đất, giảm phát thải khí nhà kính từ đất và đảm bảo năng suất cây trồng. 3 nhóm giải pháp: (1) Nhóm giải pháp về chính sách, (2) Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện, (3) Nhóm các giải pháp cụ thể cho vùng đồng bằng Sông Hồng. Hơn nữa, 02 chủng vi khuẩn,

Lên đầu trang