Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Tên tác giả: admin

Kết quả tài trợ nổi bật, Kết quả tài trợ nổi bật - NCCB KHTN

Nghiên cứu phát triển phương pháp phân tích, quan trắc và đánh giá rủi ro do các chất nhóm phthalate và siloxane tích lũy trong môi trường không khí và nước tại khu vực Hà Nội, Việt Nam

Nội dung của cụm ba công trình góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn cấp bách mang tính toàn cầu hiện nay là ô nhiễm môi trường. Trong đó ô nhiễm môi trường do sự phát tán của các hóa chất tổng hợp đã được chứng minh có độc tính gây rối loạn nội tiết mới nổi như nhóm phthalate và siloxane đang thu hút được sự quan tâm rất lớn của cộng đồng trong những năm gần đây. Phthalate (ester của acid phthalic) và siloxane (silic hữu cơ có chứa nhóm methyl) là hai nhóm chất bao gồm nhiều đồng loại có cấu trúc phức tạp và được biết đến là các phụ gia được sử dụng rất phổ biến với hàm lượng lớn (lên tới vài phầm trăm về khối lượng) trong nhiều sản phẩm như: các vật liệu bằng nhựa, vật dụng gia đình, đồ chơi trẻ em, sản phẩm chăm sóc cá nhân, mỹ phẩm, dược phẩm và thẩm mỹ…. Do được sử dụng rộng rãi, các hóa chất này đã phát tán vào các môi trường khác nhau và thậm chí đi vào chuỗi thức ăn của con người và động vật. Đáng quan tâm hơn bởi gần đây các nhà khoa học đã tìm thấy những bằng chứng về độc tính của chúng đối với động vật trong phòng thí nghiệm. Tác động chính của các nhóm phthalate và siloxane là làm thay đổi hệ nội tiết của động vật thí nghiệm như hormone sinh sản (estrogen), hormone sinh trưởng và hệ vận động. Tuy nhiên, cho đến nay những hiểu biết về mức độ phân bố trong môi trường của nhóm hóa chất này vẫn còn rất hạn chế do thiếu các phương pháp đồng bộ và năng lực phân tích chưa đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, việc lựa chọn hướng nghiên cứu xây dựng các phương pháp phân tích hiện đại và chính xác; khả năng xử lý và làm sạch môi trường; để nâng cao hiểu biết của cộng động về nguồn gốc, sự tích lũy, rủi ro đối với môi trường để từ đó đề ra các giải pháp nhằm quản lý, sử dụng, kiểm soát các hóa chất nhóm phthalate và siloxane một cách hiệu quả là những vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách. Hình 1: Biểu đồ phân tích thành phần chính của phthalic acid ester (phthalate và siloxane) trong không khí tại Hà Nội (Nguồn: Science of the Total Environment, 760, 143380) Công trình thứ nhất: Nội dung của nghiên cứu này phát triển phương pháp phân tích chính xác cao, hiệu quả, đồng thời 10 hợp chất nhóm phthalate và 3 hợp chất siloxane mạch vòng trong không khí ở lượng vết. Nghiên cứu đã xác định thành phần của phthalate và siloxane trong hai pha (pha hạt và pha hơi), từ đó nhóm tác giả tính toán hằng số phân bố (Kp) và hệ số phát tán (Kow) bằng phương trình bán thực nghiệm. Nhóm tác giả cũng đã đề xuất công thức ước lượng mức độ rủi ro phơi nhiễm của các hóa chất này qua con đường hít thở không khí cho các nhóm lứa tuổi khác nhau. Nghiên cứu có ý nghĩa và giá trị khoa học quan trọng trong việc phát triển các phương pháp phân tích chính xác, hiện đại; đồng thời cung cấp những hiểu biết mới về nguồn gốc phát tán, mức độ ô nhiễm trong không khí và rủi ro phơi nhiễm ở Việt Nam do các hóa chất gây rối loạn nội tiết mới nổi nhóm phthalate và siloxane. Công trình thứ hai: Trong nghiên cứu này, phương pháp chính xác để phân tích các hợp chất siloxane mạch vòng trong môi trường nước đã được phát triển thành công dựa trên thiết bị sắc ký khí ghép nối khối phổ (GC-MS) và kỹ thuật chiết pha rắn (SPE). Phương pháp phân tích có độ thu hồi cao, độ lặp lại và độ ổn định tốt, độ lệch chuẩn nhỏ, giới hạn phát hiện thấp để có thể định lượng các chất siloxane trong mẫu nước ở mức lượng vết. Nhóm tác giả đã áp dụng phương pháp phát triển được để phân tích, quan trắc mức độ phân bố của các chất siloxane mạch vòng trong các loại mẫu nước thu thập tại khu vực nội đô Hà Nội bao gồm: nước máy, nước đóng chai, nước ao hồ và nước thải (trước và sau khi xử lý). Nghiên cứu đã cung cấp bộ số liệu đáng tin cậy về mức độ ô nhiễm, bước đầu đánh giá liều lượng rủi ro phơi nhiễm siloxane qua con đường nước uống cho các nhóm lứa tuổi khác nhau và rủi ro sinh thái cho các động vật thủy sinh do sự tích lũy của siloxane trong môi trường nước. Hình 2: Mức độ ô nhiễm của phthalic acid ester (phthalate) trong các loại mẫu nước khác nhau (Nguồn: Science of the Total Environment, 788, 147831) Công trình thứ ba: Công trình là một trong những báo cáo tiên phong về đối tượng hóa chất nhóm phthalate và mẫu nước được nghiên cứu tại Việt Nam. Nghiên cứu đã phát triển phương pháp xác định đồng thời 10 chất phthalate trong mẫu nước dựa trên kỹ thuật chiết pha rắn (SPE) kết hợp với sắc ký khí ghép nối khối phổ (GC-MS). Ưu điểm của phương pháp là độ chính xác và độ ổn định cao, độ thu hồi tốt, giới hạn phát hiện thấp để có thể định danh và định lượng đồng thời 10 hợp chất nhóm phthalate trong mẫu nước ở lượng vết, tiết kiệm dung môi hữu cơ độc hại, giảm thời gian chuẩn bị mẫu và chi phí thu thập mẫu môi trường. Công trình là một trong số ít những báo cáo trên thế giới về mức độ phân bố và ô nhiễm của các

Sự kiện, Tin tức

NAFOSTED hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài trợ thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia

Ngày 5/9/2025, tại TP. Hồ Chí Minh, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Quốc gia (NAFOSTED) đã tổ chức Hội thảo khoa học “Hỗ trợ nâng cao chất lượng hồ sơ đề xuất của doanh nghiệp tham gia thực hiện nhiệm vụ KH&CN do Quỹ tài trợ”. Hội thảo thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới khoa học, các trường đại học, doanh nghiệp công nghệ và cơ quan quản lý, mở ra cơ hội tăng cường năng lực nghiên cứu – đổi mới sáng tạo, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược. Toàn cảnh Hội thảo. Liên kết “3 nhà” thúc đẩy công nghệ chiến lược quốc gia Phát biểu khai mạc, PGS.TS. Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED nhấn mạnh, Hội thảo là bước cụ thể hóa Nghị quyết số 57 và Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục công nghệ chiến lược (CNCL) và sản phẩm CNCL. “NAFOSTED mong muốn đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng hồ sơ đề xuất nhiệm vụ KH&CN, đặc biệt trong danh mục CNCL – điều kiện tiên quyết để đề tài vừa tuân thủ quy định, vừa có tính khả thi, hiệu quả cao, đồng thời gắn kết chặt chẽ giữa “3 nhà”: Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp”. Chính phủ, Bộ KH&CN cùng NAFOSTED đã và đang triển khai nhiều cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng khoa học cũng như doanh nghiệp tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu và phát triển, trong đó các chương trình tài trợ nghiên cứu của Quỹ được coi là kênh quan trọng để doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực tài chính, nâng cao năng lực công nghệ và phát triển sản phẩm mới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp và tổ chức khoa học vẫn gặp khó khăn trong việc xây dựng, trình bày hồ sơ đề xuất nhiệm vụ KH&CN. Không ít hồ sơ thiếu thông tin, chưa làm rõ tính mới, tính khả thi hoặc chưa đáp ứng chuẩn mực đánh giá của hội đồng khoa học… Điều này khiến cơ hội tiếp cận nguồn vốn tài trợ bị hạn chế, đồng thời ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai nhiệm vụ sau khi được phê duyệt. Ông Đào Ngọc Chiến kỳ vọng, sự tham gia tích cực của các nhà khoa học, doanh nghiệp vào các chương trình tài trợ của NAFOSTED sẽ góp phần hình thành nhiều đề xuất chất lượng cao, khẳng định vai trò “cầu nối” của Quỹ trong việc đưa KH&CN trở thành động lực phát triển đất nước. PGS.TS. Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED phát biểu khai mạc Hội thảo. Phát biểu tại Hội thảo, GS.TS. Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (ĐHQG TP. HCM) nhấn mạnh, tinh thần của Nghị quyết 57 khởi đầu bằng từ “đột phá”, do đó các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp phải hành động đồng bộ, quyết liệt hơn. Bà cho biết, ĐHQG TP. HCM đã triển khai mạnh mẽ mô hình hợp tác “3 nhà”, gắn nghiên cứu với thực tiễn, song sự tham gia của Nhà nước về cơ chế, chính sách và nguồn lực vẫn còn chậm so với yêu cầu. Trong giai đoạn tới, ĐHQG TP. HCM sẽ tiếp tục kiên trì, sáng tạo và trách nhiệm trong thúc đẩy hợp tác “3 nhà”, coi đây là nhiệm vụ lâu dài gắn liền với sứ mệnh đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển đất nước. GS.TS. Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Giám đốc ĐHQG TP. HCM phát biểu tại Hội thảo. Giới thiệu các chương trình tài trợ của Quỹ NAFOSTED, ông Đào Ngọc Chiến cho biết, NAFOSTED hiện đang triển khai ba loại hình nhiệm vụ hợp tác quốc tế gồm: Nhiệm vụ Nghị định thư, Hợp tác song phương và Hợp tác đa phương. Trung bình mỗi năm, Quỹ mở mới khoảng 500 đề tài, duy trì 1.500 đề tài chuyển tiếp với tổng kinh phí từ ngân sách Nhà nước lên tới 2.500 tỷ đồng. Trong giai đoạn tới, NAFOSTED đặt mục tiêu xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu chất lượng cao, đưa Việt Nam vào nhóm ba nước dẫn đầu ASEAN về công bố quốc tế/tỷ USD, nhóm bốn nước đứng đầu về chỉ số H-index; gia tăng tối thiểu 15% mỗi năm số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ; hỗ trợ 40 – 50 tổ chức KH&CN đạt xếp hạng quốc tế… Để đạt mục tiêu, Quỹ đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp mạnh mẽ, áp dụng đăng ký, đánh giá và quản lý nhiệm vụ trực tuyến. Về tài chính, ngoài tăng cường ngân sách nhà nước, sự tham gia của doanh nghiệp với cơ cấu vốn dự kiến 20 – 30% từ ngân sách, 70 – 80% từ doanh nghiệp; áp dụng cơ chế khoán chi, chấp nhận rủi ro, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm để thúc đẩy KH,CN&ĐMST. PGS.TS. Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED giới thiệu các chương trình tài trợ của Quỹ. Linh hoạt cơ chế, mạnh mẽ hỗ trợ: CNCL bước vào giai đoạn tăng tốc Ông Hoàng Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ, Bộ KH&CN cho biết, Chương trình CNCL được triển khai theo Quyết định số 1131, với danh mục gồm 11 nhóm công nghệ và 35 nhóm sản phẩm chiến lược, trải rộng từ trí tuệ nhân tạo (AI), chip bán dẫn, blockchain cho tới robot… nhằm làm chủ thiết kế, tích hợp thành sản phẩm từ các công nghệ lõi, qua đó nâng giá trị Việt Nam trong sản phẩm CNCL lên trên 50%. Theo ông Hoàng Anh

Kết quả tài trợ nổi bật

Thái Bình: Mô hình trồng dưa thơm và hoa công nghệ cao – hướng đi bền vững cho nông nghiệp hiện đại

Trong hành trình đổi mới và hiện đại hóa ngành nông nghiệp, tỉnh Thái Bình đã ghi dấu ấn với một mô hình tiêu biểu, kết hợp hài hòa giữa khoa học công nghệ và lợi thế thổ nhưỡng địa phương. Đó là dự án “Ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình sản xuất và xử lý sau thu hoạch một số loại dưa thơm và hoa chất lượng cao gắn với tiêu thụ sản phẩm” do Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp Toan Vân chủ trì. Dự án được triển khai từ năm 2022 đến năm 2025 thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025; Dự án tập trung vào ba nhóm nội dung chính: sản xuất cây giống và trồng thương phẩm (dưa thơm, hoa các loại), ứng dụng công nghệ bảo quản – chế biến sau thu hoạch, và xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm. Với mục tiêu đưa sản xuất nông nghiệp lên một tầm cao mới, dự án không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tạo việc làm và nâng cao trình độ kỹ thuật cho người dân. Một trong những điểm sáng của dự án là việc triển khai đồng thời nhiều mô hình sản xuất quy mô lớn, ứng dụng quy trình VietGAP và công nghệ nhà lưới hiện đại. Cụ thể, mô hình sản xuất cây giống dưa thơm (dưa vàng, dưa vân lưới) đã cung cấp gần 48.000 cây giống đạt tiêu chuẩn, tỷ lệ sống tới 97%. Các mô hình sản xuất dưa thương phẩm gồm: trồng dưa vân lưới trong nhà lưới (5.000 m²/vụ) và trồng dưa vàng ngoài đồng ruộng (2,5 ha/vụ), mỗi năm 2 vụ, cho sản lượng ấn tượng với tổng cộng hơn 272 tấn quả trong hai năm. Hình 1: mô hình sản xuất dưa thơm Đáng chú ý, chất lượng dưa đạt tiêu chuẩn cao, độ Brix từ 13,4–15,2%, trọng lượng trung bình mỗi quả gần 1,7kg – đáp ứng nhu cầu thị trường cao cấp. Thời gian thu hoạch ngắn, cây phát triển ổn định, ít sâu bệnh, phù hợp với điều kiện canh tác tại địa phương. Không chỉ tập trung vào cây ăn quả, dự án còn đầu tư lớn vào sản xuất hoa chất lượng cao. Các loại hoa được lựa chọn gồm tulip, lily, đồng tiền, cúc, lay ơn – đều là những giống có giá trị kinh tế cao, thường được sử dụng trong dịp lễ Tết và nhu cầu trang trí đô thị. Tổng diện tích hoa trồng trong nhà lưới và ngoài đồng ruộng lên tới hơn 6,6 ha trong 2 năm, sản xuất trên 340.000 cây hoa thành phẩm. Trong đó, tỷ lệ cây đạt chất lượng luôn ở mức rất cao: tulip đạt 94%, lily từ 96–98%, hoa đồng tiền và cúc gần như đạt tuyệt đối (99–100%). Hình 2: mô hình sản xuất hoa chất lượng cao Một điểm đáng chú ý khác là mô hình sơ chế và bảo quản sau thu hoạch – thường là khâu yếu trong sản xuất nông nghiệp – đã được đầu tư đúng mức. Dưa thơm được sấy lạnh, đạt độ ẩm lý tưởng 5–15%, cho năng suất 5kg khô/100kg tươi. Hoa cúc sấy lạnh cho năng suất 10kg khô/100kg tươi và đã được chứng nhận OCOP 3 sao – khẳng định giá trị gia tăng và khả năng tiêu thụ sản phẩm theo hướng hàng hóa. Không dừng lại ở sản xuất, dự án còn xây dựng mạng lưới tiêu thụ bài bản với hơn 350.000 cây hoa các loại được phân phối trong và ngoài tỉnh. Sản phẩm không chỉ xuất hiện tại các chợ đầu mối, cửa hàng nông sản mà còn tiếp cận kênh thương mại hiện đại. Đây là bước tiến quan trọng, từng bước hình thành chuỗi giá trị nông sản bền vững từ sản xuất – sơ chế – bảo quản – tiêu thụ. Về mặt nhân lực, dự án đã đào tạo 10 kỹ thuật viên có tay nghề cao, đồng thời tổ chức tập huấn cho 200 lượt người dân. Hoạt động đào tạo không chỉ giúp chuyển giao công nghệ, mà còn tạo ra đội ngũ “nông dân công nghệ” – những người có thể làm chủ kỹ thuật, sáng tạo trong canh tác và tự tin trong liên kết thị trường. Có thể khẳng định, mô hình trồng dưa thơm và hoa công nghệ cao tại Thái Bình do Công ty Toan Vân triển khai đã mang lại hiệu quả rõ rệt về kinh tế, xã hội và môi trường. Đây không chỉ là một dự án, mà là một hướng đi thực tiễn, thiết thực và khả thi trong tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn. Kết quả dự án góp phần thiết lập nền sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nâng tầm giá trị sản phẩm địa phương và là cơ sở quan trọng để nhân rộng ra các địa phương khác trong tỉnh và vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nguồn: Phòng Quản lý nhiệm vụ chuyển tiếp   

Kết quả tài trợ nổi bật

Nghiên cứu kháng sinh nano trong chăn nuôi gia cầm: Giải pháp mới hướng tới nông nghiệp an toàn, bền vững

Trong bối cảnh ngành chăn nuôi đang đối mặt với thách thức về tình trạng lạm dụng kháng sinh và nguy cơ tồn dư trong thực phẩm, nhóm nghiên cứu do PGS.TS. Hà Phương Thư (Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) chủ trì đã thực hiện đề tài khoa học “Nghiên cứu phát triển kháng sinh nano thực vật, kháng sinh nano và đánh giá hiệu quả của chúng nhằm ứng dụng trong chăn nuôi gia cầm” (mã số 06/2020/TN). Đề tài được Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) tài trợ, và đã đem lại nhiều kết quả tích cực, mở ra hướng đi mới cho chăn nuôi an toàn, bền vững. Kháng sinh nano – Giải pháp công nghệ từ vật liệu tiên tiến Điểm nhấn quan trọng của đề tài là sự phát triển thành công các hệ kháng sinh nano thế hệ mới, bao gồm: Kháng sinh nano từ thảo dược (tỏi, diệp hạ châu); Kháng sinh nano tổng hợp (Doxycycline, Florfenicol kết hợp nano bạc). Các chế phẩm này có kích thước hạt siêu nhỏ (<100 nm), độ ổn định cao và khả năng giải phóng hoạt chất theo thời gian, giúp nâng cao hiệu quả kháng khuẩn. Đặc biệt, thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy sản phẩm có khả năng tiêu diệt các chủng vi khuẩn đã kháng thuốc – một vấn đề nan giải của ngành chăn nuôi hiện nay. Nano hóa kháng sinh TV từ Tỏi/Diệp hạ châu + nano Ag Ứng dụng thực tế: Hiệu quả được chứng minh tại mô hình trang trại Mô hình thử nghiệm được triển khai tại trang trại chăn nuôi gà thịt ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Kết quả đánh giá cho thấy: Giảm 10 lần liều lượng kháng sinh sử dụng so với đối chứng Tỷ lệ sống của đàn gà đạt 98%, cao hơn so với lô đối chứng (94%) Dư lượng kháng sinh trong thịt gà chỉ còn 35 µg/kg, thấp hơn nhiều so với mức 197 µg/kg ở nhóm đối chứng và đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm Các chỉ số trên cho thấy tính an toàn, hiệu quả và khả năng áp dụng thực tiễn của sản phẩm, đồng thời góp phần giảm thiểu tồn dư kháng sinh trong thực phẩm – một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển nông nghiệp sạch. Thử nghiệm tại Trang trại chăn nuôi Kim Tân Minh, Bắc Giang Phát triển công nghệ và tiềm năng ứng dụng Cùng với kết quả nghiên cứu chuyên môn, đề tài cũng đạt được những thành tựu đáng kể về mặt công nghệ và chuyển giao: Hoàn thiện quy trình sản xuất ở quy mô pilot 100 lít/mẻ Được cấp 02 Bằng độc quyền sáng chế, vượt chỉ tiêu đặt ra Công bố 02 bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín và 01 báo cáo tại hội nghị chuyên ngành trong nước Những kết quả này thể hiện tính mới, khả năng ứng dụng cao và tiềm năng thương mại hóa của sản phẩm, mở ra cơ hội chuyển giao công nghệ vào sản xuất thực tiễn. Các công bố nổi bật của đề tài mã số 06/2020/TN Đề tài là minh chứng tiêu biểu cho việc ứng dụng vật liệu nano trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần quan trọng vào việc xây dựng mô hình chăn nuôi bền vững, hạn chế sử dụng kháng sinh truyền thống và bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Đề tài được tài trợ thực hiện bởi nhiệm vụ KH&CN tiềm năng – Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED). Nguồn: Phòng Quản lý Nghiên cứu ứng dụng  

Sự kiện, Tin tức

Việt Nam nên khai thác lợi thế phát triển vật liệu năng lượng tái tạo

GS Nguyễn Thục Quyên cho rằng Việt Nam có thể trở thành quốc gia tiên phong về công nghệ nếu tập trung nghiên cứu lĩnh vực năng lượng tái tạo cũng như nhiên liệu sinh học. GS Nguyễn Thục Quyên, Giám đốc Trung tâm Vật liệu Polymer và Hữu cơ, Đại học California, Santa Barbara (UCSB) đưa ra gợi ý tại hội thảo quốc tế Horizons 2025 do trường Đại học VinUni phối hợp với Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Nafosted) và một số đơn vị tổ chức từ 25-27/8. Theo GS Quyên “vật liệu chính là chìa khóa của mọi công nghệ”. Tương lai năng lượng bền vững phụ thuộc vào khả năng tạo ra các vật liệu mới chi phí thấp, hiệu suất cao và thân thiện môi trường. “Điều quan trọng là Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào đều cần tìm các lợi thế riêng có, không phụ thuộc hoàn toàn vào chuỗi cung ứng công nghệ nước ngoài”. Bà cho rằng “Việt Nam có thể trở thành quốc gia tiên phong về công nghệ nếu tập trung nghiên cứu lĩnh vực năng lượng tái tạo cũng như nhiên liệu sinh học, thay vì cạnh tranh trong các ngành đòi hỏi đầu tư khổng lồ như điện toán lượng tử hay bán dẫn”. GS Nguyễn Thục Quyên trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh: Nafosted Tại hội thảo, nhiều nhà khoa học cũng chia sẻ về các kết quả nghiên cứu mới trong đó hơn 80 bài trình bày từ các chuyên gia về năng lượng tái tạo, vật liệu y sinh, sản xuất bền vững và công nghệ in 3D. Cụ thể như hệ thống khám phá vật liệu tự học, pin mặt trời perovskite với hiệu suất trên 30%, pin mặt trời hữu cơ tích hợp tòa nhà, công nghệ pin sạc nhanh và vật liệu sinh học. Việc tích hợp AI vào nghiên cứu vật liệu cũng là vấn đề được quan tâm, với mục tiêu rút ngắn thời gian từ ý tưởng đến ứng dụng. Nhiều bài trình bày có ý nghĩa thực tiễn cao được giới thiệu như công nghệ pin mặt trời kết hợp IoT và hệ thống nhà kính thông minh để phù hợp khí hậu nhiệt đới; công nghệ chẩn đoán y tế sử dụng vật liệu quang nhạy cảm có tiềm năng triển khai tại các bệnh viện ở Việt Nam. Các nghiên cứu về pin mới với khả năng sạc nhanh và ổn định cao cũng mở ra cơ hội phát triển giải pháp lưu trữ năng lượng. Các nhà khoa học tham gia sự kiện. Ảnh: Nafosted Horizons 2025 là hội thảo đầu tiên kết hợp khoa học vật liệu; trí tuệ nhân tạo và tự động hóa trong cùng một sự kiện, tạo không gian để các nhà khoa học từ các lĩnh vực khác nhau gặp gỡ và tìm ra ứng dụng liên ngành. “Đây là diễn đàn quan trọng giúp các nhà khoa học Việt Nam kết nối trực tiếp với cộng đồng nghiên cứu quốc tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ khoa học toàn cầu”, GS Nguyễn Đức Hòa, Phó Hiệu trưởng Trường Vật liệu, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học ngành Vật lý Nafosted đánh giá. GS Laurent El Ghaoui, Phó Hiệu trưởng phụ trách Nghiên cứu & Đổi mới sáng tạo của VinUni thông qua hội thảo góp phần khẳng định năng lực tổ chức và kết nối của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ vật liệu mới, đồng thời “là chất xúc tác giúp nghiên cứu về vật liệu và trí tuệ nhân tạo nhanh chóng đi vào cuộc sống”. Hội thảo quốc tế Horizons 2025 diễn ra tại Trường Đại học VinUni quy tụ hơn 200 nhà khoa học đến từ 15 quốc gia. Sự kiện do VinUni phối hợp với Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Nafosted) và một số tổ chức khoa học trong nước, quốc tế đồng tổ chức. Hội thảo có sự tham gia của các nhà khoa học vật liệu hàng đầu thế giới như GS Natalie Stingelin, chuyên về lĩnh vực polymer bền vững và vật liệu năng lượng, Chủ nhiệm khoa Khoa học vật liệu – Học viện Georgia; GS Y. Shirley Meng – chuyên gia hàng đầu về công nghệ pin và lưu trữ năng lượng tại Đại học Chicago; GS Liu Bin, Phó Chủ tịch phụ trách nghiên cứu của Đại học Quốc gia Singapore chuyên về các loại thuốc mới điều trị ung thư tuyến tụy và ung thư da; GS Anita Ho-Baillie đến từ Đại học Sydney – tiên phong công nghệ pin mặt trời thế hệ mới… Nguồn: VnExpress

Sự kiện, Tin tức

Lễ công bố và trao Quyết định bổ nhiệm Trưởng các phòng trực thuộc Quỹ NAFOSTED

Chiều ngày 28/8/2025, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia đã trang trọng tổ chức Lễ công bố và trao quyết định bổ nhiệm Trưởng phòng với sự tham dự của Ban Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ, đại diện các phòng chuyên môn cùng toàn thể cán bộ, viên chức. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực quản lý và điều hành trong bối cảnh Quỹ đang triển khai nhiều nhiệm vụ chiến lược. Mở đầu buổi lễ, đại diện Văn phòng Quỹ đã công bố các quyết định bổ nhiệm. Các cán bộ được bổ nhiệm đều là những đồng chí đã trải qua quá trình công tác, rèn luyện, có kinh nghiệm chuyên môn, năng lực quản lý và được tập thể tin tưởng. Ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia đã thay mặt Ban Giám đốc trao Quyết định và tặng hoa cho các cán bộ được bổ nhiệm, gồm các ông/bà: Bà Hà Thị Phương Thảo – Chánh Văn phòng Quỹ. Bà Trương Thanh Huyền – Trưởng phòng phòng Quản lý Nghiên cứu cơ bản. Bà Phùng Thị Hoàng Mai – Trưởng phòng phòng Quản lý Khoa học xã hội và nhân văn. Ông Nguyễn Văn Đức – Trưởng phòng Phòng Quản lý phát triển công nghệ. Bà Nguyễn Thị Mỹ An – Trưởng phòng Phòng Quản lý nghiên cứu ứng dụng. Bà Đỗ Thị Hồng Vân – Trưởng phòng Phòng Tài chính – Kế toán. Bà Lê Ngọc Bích – Trưởng phòng Phòng Kiểm soát nội bộ. Ban Giám đốc Quỹ NAFOSTED chụp ảnh lưu nhiệm cùng cácTrưởng phòng nhận Quyết định bổ nhiệm Phát biểu nhận nhiệm vụ, các trưởng phòng bày tỏ sự vinh dự, tự hào khi được lãnh đạo Quỹ tin tưởng giao trọng trách, đồng thời cam kết nỗ lực rèn luyện, phát huy năng lực cá nhân, tinh thần trách nhiệm cao, cùng tập thể phòng và các đơn vị trong Quỹ đoàn kết, sáng tạo để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Các Trưởng phòng phát biểu nhận nhiệm vụ Phát biểu chỉ đạo tại buổi lễ, Giám đốc Quỹ NAFOSTED  gửi lời chúc mừng đến các đồng chí được bổ nhiệm, đồng thời nhấn mạnh công tác cán bộ là khâu then chốt, có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của Quỹ. Giám đốc đề nghị các cán bộ được bổ nhiệm nhanh chóng bắt tay vào công việc, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, chủ động trong công tác điều hành; đồng thời khẳng định lãnh đạo Quỹ và toàn thể cán bộ, viên chức sẽ luôn đồng hành, hỗ trợ để các đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc Quỹ NAFOSTED phát biểu chỉ đạo Buổi lễ khép lại trong không khí ấm áp, trang trọng và đoàn kết. Việc công bố và trao quyết định bổ nhiệm cán bộ lần này không chỉ tạo động lực cho các đồng chí được bổ nhiệm, mà còn thể hiện sự quan tâm, tin tưởng của tập thể lãnh đạo Quỹ đối với đội ngũ cán bộ. Đây cũng là bước đi quan trọng, góp phần xây dựng bộ máy của Quỹ NAFOSTED ngày càng vững mạnh, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong quản lý, tài trợ và hỗ trợ nghiên cứu khoa học – công nghệ trong giai đoạn phát triển mới.

Sự kiện, Tin tức

Gặp mặt và tri ân bà Đỗ Phương Lan – Phó Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Chiều ngày 27/8/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức buổi Gặp mặt và tri ân đối với bà Đỗ Phương Lan – Phó Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED). Tham dự buổi lễ có Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy, lãnh đạo Vụ Tổ chức cán bộ, Ban Giám đốc Quỹ, nguyên lãnh đạo Quỹ, cùng đông đảo cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Quỹ. Tại buổi lễ, bà Nguyễn Thị Nga – Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ đã công bố quyết định của Bộ trưởng Bộ KH&CN về việc nghỉ hưu theo chế độ đối với bà Đỗ Phương Lan. Tiếp đó, Thứ trưởng Bùi Thế Duy đã thay mặt lãnh đạo Bộ tặng hoa chúc mừng, gửi lời tri ân và ghi nhận những đóng góp của bà Lan trong suốt quá trình công tác, đặc biệt là trên cương vị Phó Giám đốc Quỹ NAFOSTED. Thứ trưởng nhấn mạnh, bà Lan là một cán bộ tận tâm, trách nhiệm, đã cùng tập thể Ban Giám đốc và các cán bộ Quỹ xây dựng, triển khai hiệu quả nhiều hoạt động hỗ trợ, tài trợ nghiên cứu khoa học, góp phần khẳng định vai trò của NAFOSTED trong hệ sinh thái khoa học và công nghệ quốc gia. Trong không khí trang trọng và ấm áp, các đại biểu tham dự đã lần lượt có những phát biểu, chia sẻ tình cảm với bà Đỗ Phương Lan. Ông Phạm Đình Nguyên – Giám đốc Học viện Chiến lược khoa học và công nghệ, nguyên Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ NAFOSTED bày tỏ sự trân trọng đối với tinh thần trách nhiệm, sự phối hợp nhịp nhàng và đóng góp thầm lặng của bà Lan trong suốt những năm qua, đồng thời gửi lời chúc sức khỏe, hạnh phúc đến bà và gia đình. Các khách mời của buổi lễ cũng bày tỏ sự ghi nhận, đánh giá cao những đóng góp của bà Lan trong các hoạt động hợp tác, tài trợ nghiên cứu khoa học, coi đó là dấu ấn quan trọng để Quỹ tiếp tục phát triển. Thay mặt tập thể lãnh đạo Quỹ, Ông Đào Ngọc Chiến – Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ NAFOSTED gửi lời cảm ơn sâu sắc, đồng thời khẳng định những cống hiến của bà Đỗ Phương Lan đã để lại dấu ấn rõ nét trong quá trình xây dựng và phát triển của Quỹ. Giám đốc nhấn mạnh, sự tận tâm, bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm của bà Lan trong nhiều năm công tác đã góp phần quan trọng vào việc khẳng định vị thế, uy tín của NAFOSTED trong hoạt động tài trợ nghiên cứu khoa học, hỗ trợ phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ, cũng như thúc đẩy hợp tác quốc tế. Những kinh nghiệm quý báu, sự gắn bó và tấm gương tận tụy của bà sẽ luôn là nguồn động viên, khích lệ để thế hệ cán bộ hiện nay và mai sau tiếp tục nỗ lực, phát huy, đưa Quỹ ngày càng phát triển bền vững. Phát biểu tại buổi lễ, bà Đỗ Phương Lan xúc động bày tỏ sự biết ơn tới tập thể lãnh đạo Bộ KH&CN, các đồng chí, đồng nghiệp đã luôn đồng hành, hỗ trợ trong công việc, tạo điều kiện để bà hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bà cũng gửi lời cảm ơn đến tập thể Quỹ NAFOSTED – nơi bà đã gắn bó nhiều năm với nhiều kỷ niệm đáng nhớ, đồng thời mong muốn Quỹ tiếp tục phát triển vững mạnh, giữ vững vai trò là quỹ tài trợ nghiên cứu khoa học uy tín hàng đầu tại Việt Nam. Buổi lễ khép lại trong không khí thân tình, trân trọng, thể hiện sự ghi nhận đối với những đóng góp của bà Đỗ Phương Lan, đồng thời cũng là dịp để tập thể cán bộ, đồng nghiệp gửi lời chúc sức khỏe, an lành và hạnh phúc đến bà trong chặng đường mới.

Kết quả tài trợ nổi bật, Kết quả tài trợ nổi bật - NCCB KHTN

Kết nối vật lý hạt với vũ trụ sớm

Vũ trụ sớm là hệ lượng tử, tuy nhiên bất tuân các định luật về vật lý lượng tử chúng ta biết. Tại Bigbang, hiệu ứng hấp dẫn lượng tử chi phối, nhưng hấp dẫn Einstein chỉ là cổ điển, không tự hợp khi lượng tử hóa cho mô tả Bigbang. Sau Bigbang, vũ trụ giãn nở lạm phát, pha này không xuất hiện trong các lý thuyết đã biết. Sau lạm phát, bất đối xứng vật chất phản vật chất và vật chất tối được sinh ra, tuy nhiên không thể mô tả trong mô hình chuẩn về hạt cơ bản. Neutrino xuất hiện từ vũ trụ sớm, nhưng dao động neutrino cũng không thể giải thích trong mô hình chuẩn. Khối lượng neutrino, bất đối xứng vật chất phản vật chất, vật chất tối, và lạm phát vũ trụ là những vấn đề lớn, quan trọng của vật lý học hiện đại. Các dị thường vật lý mới ở LHC và các thực nghiệm khác xuất hiện, thu hút sự quan tâm. Hiểu được chúng sẽ cho chúng ta xác định được vũ trụ sớm, tiếp cận đến Bigbang, và luận giải về trạng thái hiện tại của vũ trụ. Các vấn đề trên có tính thời sự, được thảo luận sôi nổi trên toàn thế giới (điển hình: Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản) không trừ Việt Nam, trên cả phương diện thực nghiệm lẫn lý thuyết, nhiều năm qua. Đề xuất truyền thống nhằm mở rộng mô hình chuẩn và thuyết tương đối rộng (siêu đối xứng, thêm chiều, thống nhất lớn, v.v.) chỉ giải quyết riêng lẻ vấn đề và cho một số dự đoán mâu thuẫn thực nghiệm. Thành công của nguyên lý đối xứng chuẩn trong mô tả các tương tác của tự nhiên (điện từ, yếu, mạnh, hấp dẫn) gợi ý tồn tại một đối xứng chuẩn cơ bản hơn, đối xứng chuẩn tối – dark gauge symmetry, có thể cầu nối đến bí ẩn Bigbang, giải thích trọn vẹn các vấn đề trên. Chúng tôi đã đề xuất một đề tài nghiên cứu mạnh, trong đó nguyên lý chuẩn tối, “Kết nối vật lý hạt với vũ trụ sớm”, được xác định cụ thể bằng ba mô hình mới sau: 1) Mô hình với đối xứng Abelian tối; 2) Mô hình với đối xứng không Abelian tối; 3) Mô hình thống nhất lớn tối. Tìm được một lý thuyết mở rộng cho hiểu về vũ trụ sớm và Bigbang là một trong những bài toán lớn nhất của vật lý học hiện đại thế kỷ thứ 21 này. Vì vậy, đề xuất trên nhằm tìm một luật cơ bản hơn thay thế các lý thuyết đã biết chi phối vũ trụ sớm là hoàn toàn mới, có ý nghĩa khoa học cao. Ở thang lạm phát, lý thuyết này làm việc với không thời gian cong, cho phép mô tả động lực lạm phát, hiệu ứng với hấp dẫn, và đặc biệt cách trường lạm phát sinh bức xạ và vật chất quan sát ngày nay. Lý thuyết sẽ hội tụ đến Bigbang, cho phép thăm dò Bigbang, nhưng không mô tả Bigbang vì lượng tử hóa trường hấp dẫn nằm ngoài phạm vi của đề tài. Các dị thường vật lý mới đang được chứng minh bởi LHC và các thực nghiệm khác chỉ ra manh mối cho sự tồn tại của nguyên lý chuẩn tối. Nó giải thích các vấn đề thực nghiệm vật lý hạt và vũ trụ học, giúp cộng đồng vật lý có cái nhìn sâu, rộng hơn về một thế giới vi mô có thể.   Nhiều thập kỷ qua, cộng đồng khoa học thế giới trong đó có nhóm nghiên cứu của GS.TS. Phùng Văn Đồng (xem Hình 2)  nghiên cứu về vấn đề này và chỉ ra rằng tồn tại một nguyên lý tổng quát, cho giải quyết tích hợp các vấn đề thực nghiệm đã nêu. Trên con đường tìm nguyên lý đó, chúng ta đã có những bước tiến lớn, như cơ chế seesaw, cơ chế scotogenic, nguyên lý chuẩn bền vật chất tối, v.v. Nguyên lý chuẩn tối nếu được kiểm chứng sẽ là một cuộc cách mạng trong nhận thức của chúng ta về vũ trụ sớm. Nhóm nghiên cứu đã có những công trình ảnh hưởng trên con đường tìm lý thuyết mới, như mô hình 3-3-1-1 đoạt Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2016 (TS.Phùng Văn Đồng) và lý thuyết hấp dẫn có khối lượng phi tuyến cũng đạt giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2018 (TS. Đỗ Quốc Tuấn). Nhóm nghiên cứu gồm 15 thành viên chủ chốt làm về vật lý năng lượng cao và vũ trụ học, hợp tác với nhau nhiều năm và tự đào tạo nguồn nhân lực cho mình, đã thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ NAFOSTED với nhiều kết quả công bố được đánh giá rất tốt. GS.TS. Phùng Văn Đồng đã thực hiện 5 đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ NAFOSTED tài trợ, là tác giả chính của 70 bài ISI uy tín. PGS.TS. Đỗ Quốc Tuấn đã thực hiện 2 nghiên cứu cơ bản do Quỹ NAFOSTED tài trợ, công bố được 30 bài báo thuộc Danh mục tạp chí ISI có uy tín. TS. Đỗ Thị Hương đã thực hiện 3 nghiên cứu cơ bản do Quỹ NAFOSTED tài trợ, công bố được 40 bài báo thuộc Danh mục tạp chí ISI có uy tín. GS.TS. Đặng Văn Soa đã hoàn thành 3 nghiên cứu cơ bản do Quỹ NAFOSTED tài trợ, công bố được 40 bài báo thuộc Danh mục tạp chí ISI có uy tín. TS. Trần Văn Quế và TS. Dương Văn Lợi công bố được 40 bài báo thuộc Danh mục tạp chí ISI có uy tín, là các nhà vật lý trẻ đang tích cực nghiên cứu và đạt được các thành tích đáng khích

Thông báo, Tin tức

Thông báo về việc tổ chức Hội thảo khoa học “Hỗ trợ nâng cao chất lượng hồ sơ đề xuất của doanh nghiệp tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Quỹ tài trợ”

Thực hiện Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12 tháng 6 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục công nghệ chiến lược (CNCL) và sản phẩm công nghệ chiến lược (SPCNCL); nhằm nâng cao chất lượng hồ sơ đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) của doanh nghiệp tham gia phát triển SPCNCL, bảo đảm tuân thủ các quy định, có tính khả thi cao, đồng thời tăng cường kết nối giữa “3 nhà”: Nhà nước – Nhà trường – Nhà doanh nghiệp trong quá trình triển khai, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia trân trọng kính mời Quý đại biểu tham dự Hội thảo khoa học: “Hỗ trợ nâng cao chất lượng hồ sơ đề xuất của doanh nghiệp tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Quỹ tài trợ”. Thông tin cụ thể như sau: Thời gian: Thứ Sáu, ngày 05 tháng 9 năm 2025. Địa điểm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: Số 227 Nguyễn Văn Cừ, Phường Chợ Quán, TP. Hồ Chí Minh. Sự tham gia và đóng góp ý kiến của Quý đại biểu sẽ góp phần quan trọng cho thành công của Hội thảo. Quý đại biểu quét QR-Code phía dưới để đăng ký tham dự, tải Chương trình và tài liệu.

Kết quả tài trợ nổi bật

Biến rác thải thành điện và nhiên liệu sạch: Hướng đi mới cho nông thôn Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi năng lượng và thực hiện cam kết Net Zero, một nhóm nghiên cứu do GS.TSKH. Bùi Văn Ga (Trường Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng) chủ trì đã hoàn thành đề tài “Mô-đun sản xuất điện hòa lưới công suất nhỏ từ chất thải sinh hoạt và sản xuất ở nông thôn”, mang lại những kết quả đột phá, vừa giải quyết bài toán môi trường, vừa mở ra triển vọng phát triển năng lượng sạch cho khu vực nông thôn. Theo nhóm nghiên cứu, rác thải sinh hoạt và sản xuất không chỉ là gánh nặng môi trường mà còn là nguồn tài nguyên quý giá nếu được xử lý đúng cách. Hiện nay, phần lớn chất thải rắn sau tái chế vẫn phải đem chôn lấp, gây ô nhiễm đất, nước, phát thải khí nhà kính (CH₄, CO₂) và lãng phí tài nguyên. Trong khi đó, năng lượng sinh khối (biomass) được đánh giá có tiềm năng lớn, đứng thứ tư sau than đá, dầu mỏ và khí đốt. Nếu chuyển hóa thành nhiên liệu khí tổng hợp (syngas) để sản xuất điện, lượng CO₂ phát thải sẽ được cây xanh hấp thụ, góp phần cân bằng carbon thay vì tạo ra CH₄ – loại khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh gấp 20 lần. Điểm đặc biệt của công trình là mô-đun điện-rác tích hợp trong hệ thống năng lượng tái tạo lai (HRES), kết hợp điện mặt trời, điện gió, biomass và công nghệ sản xuất hydrogen xanh. Trong đó, rác khó phân hủy được nén thành viên nhiên liệu RDF để khí hóa thành syngas, còn rác hữu cơ dễ phân hủy dùng sản xuất biogas. Hai loại khí này, sau khi lọc sạch, được hòa trộn cùng hydrogen tạo ra từ điện phân nước nhờ nguồn năng lượng tái tạo. Hỗn hợp nhiên liệu linh hoạt này được đưa vào động cơ đốt trong cải tiến để phát điện, đồng thời có thể đấu nối trực tiếp vào lưới điện. Sơ đồ tổng thể hệ thống năng lượng tái tạo lai solar-wind-biomass Phân tích bằng phần mềm HOMER cho thấy, phương án mô-đun điện-rác kết hợp sản xuất hydrogen có hiệu quả kinh tế tương đương với mô-đun không sản xuất hydrogen, nhưng lại giảm phát thải CO₂ nhiều hơn. Hydrogen tạo ra còn có thể được sử dụng như nhiên liệu sạch cho xe gắn máy – phương tiện phổ biến ở nông thôn. Đặc biệt, xe máy sử dụng pin nhiên liệu hydrogen có mức phát thải khí nhà kính chỉ bằng 15% so với xe điện accu, đồng thời có ưu thế về thời gian nạp nhiên liệu nhanh và quãng đường hoạt động dài. Để khắc phục những hạn chế kỹ thuật của biomass, nhóm nghiên cứu đã đề xuất nhiều giải pháp: ép rác thành viên RDF để tăng mật độ năng lượng gấp 10 lần, sử dụng không khí giàu oxygen để nâng nhiệt trị syngas lên gấp đôi, áp dụng vật liệu lọc H₂S mới từ bentonite và zeolite tái sinh nhằm kéo dài tuổi thọ động cơ. Ngoài ra, động cơ tĩnh tại truyền thống đã được cải tạo bằng hệ thống vòi phun kép điều khiển điện tử, giúp sử dụng linh hoạt hỗn hợp syngas – biogas – hydrogen. Chế biến biomass thành viên nén nhiên liệu RDF Một hướng nghiên cứu đáng chú ý khác là phối hợp hydrogen với xăng sinh học. Khi bổ sung hydrogen, các vấn đề kỹ thuật của xăng sinh học hàm lượng ethanol cao (ăn mòn, khó khởi động ở nhiệt độ thấp, giảm quãng đường di chuyển) đều được cải thiện đáng kể, hỗ trợ lộ trình tăng tỷ lệ E10, E20 trong tương lai. Kết quả nghiên cứu mở ra khả năng ứng dụng rộng rãi: từ mô-đun sản xuất điện nhỏ phục vụ hộ gia đình, hợp tác xã, đến hệ thống năng lượng tái tạo lai kết hợp sản xuất hydrogen xanh cho cộng đồng nông thôn; từ việc cải tiến động cơ hiện có sang chế tạo xe máy hydrogen – xăng sinh học, tiến tới xe máy pin nhiên liệu hydrogen. Đề tài không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn, khi góp phần xử lý rác thải, giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm năng lượng hóa thạch, đồng thời tạo động lực cho ngành công nghiệp năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Trong bối cảnh Chính phủ đã công bố lộ trình dừng phương tiện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch từ năm 2040, công trình của nhóm GS. Bùi Văn Ga được kỳ vọng sẽ là giải pháp hiệu quả, góp phần hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050. Nguồn: Phòng Quản lý nhiệm vụ Nghiên cứu ứng dụng  

Lên đầu trang