Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Tên tác giả: admin

Sự kiện, Tin tức

NAFOSTED tổ chức 12 phiên họp Hội đồng khoa học: Khởi động quá trình xét chọn đề tài nghiên cứu ứng dụng năm 2025

Trong hai ngày 23 và 24/8/2025, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đã đồng loạt tổ chức 12 phiên họp Hội đồng khoa học nghiên cứu ứng dụng (HĐKH) tại Hà Nội. Đây là hoạt động quan trọng, đánh dấu bước khởi động trong quy trình xét chọn, thẩm định và đánh giá các đề tài nghiên cứu ứng dụng cho kế hoạch tài trợ năm 2025. Theo kế hoạch đã được Quỹ công bố từ tháng 5/2025 (xem chi tiết), các phiên họp lần này tập trung vào việc rà soát tính hợp lệ của hồ sơ, đồng thời giới thiệu và lựa chọn các chuyên gia tư vấn độc lập – những người sẽ trực tiếp tham gia vào quá trình đánh giá chuyên môn đối với từng đề tài. Việc triển khai đồng bộ 12 phiên họp không chỉ khẳng định sự chuyên nghiệp và minh bạch trong tổ chức, mà còn thể hiện quyết tâm đổi mới của Quỹ trong việc nâng cao chất lượng tài trợ nghiên cứu khoa học. Đại diện Hội đồng khoa học lĩnh vực Y, Dược nhiệm kỳ 2024-2026 và cán bộ Quỹ NAFOSTED chụp ảnh lưu niệm Bảo đảm khách quan – minh bạch – chuẩn quốc tế Căn cứ Điều 9 Quyết định số 11/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 18/4/2025, HĐKH có trách nhiệm rà soát kỹ lưỡng hồ sơ đăng ký, đồng thời đề xuất danh sách chuyên gia có năng lực và uy tín trong từng lĩnh vực để tiến hành đánh giá độc lập. Tại 12 phiên họp, các Hội đồng đã tuân thủ đầy đủ quy trình, bảo đảm các tiêu chí khách quan, công bằng và tiếp cận theo chuẩn quốc tế. Đây được coi là “vòng lọc đầu tiên” giúp lựa chọn những hồ sơ đáp ứng yêu cầu về pháp lý và chất lượng ban đầu, tạo tiền đề cho giai đoạn đánh giá – xét chọn chính thức, dự kiến sẽ được tổ chức vào tháng 9/2025. Lãnh đạo Quỹ đồng hành cùng Hội đồng Điểm đáng chú ý là cả 4 Phó Giám đốc Quỹ NAFOSTED – ông Lê Đình Hanh, ông Nguyễn Phú Bình, ông Ngô Sĩ Quốc và ông Lê Tài Dũng – đều trực tiếp tham dự và đồng hành cùng các Hội đồng khoa học trong suốt hai ngày làm việc. Sự hiện diện của Ban Lãnh đạo không chỉ thể hiện tinh thần sát cánh, mà còn khẳng định cam kết đổi mới mạnh mẽ, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong từng khâu đánh giá. Theo nhận định của nhiều đại biểu, việc Lãnh đạo Quỹ trực tiếp tham gia các phiên họp giúp tạo sự kết nối chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và đội ngũ chuyên gia khoa học. Qua đó, các quyết định đưa ra sẽ vừa bám sát quy định, vừa phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn của cộng đồng nghiên cứu và xã hội. Các thành viên Hội đồng liên ngành Cơ khí, Tự động hóa, Robot Quyết tâm đổi mới quy trình, mở rộng mạng lưới chuyên gia Việc tổ chức đồng loạt 12 phiên họp thể hiện nỗ lực lớn của NAFOSTED trong việc cải tiến quy trình tài trợ nghiên cứu. Không chỉ tinh gọn thủ tục hành chính, Quỹ còn chú trọng ứng dụng nền tảng số, tăng cường công cụ hỗ trợ trực tuyến, đồng thời mở rộng mạng lưới chuyên gia đa ngành, kết nối các nhà khoa học trong và ngoài nước. Đây là định hướng quan trọng nhằm lựa chọn các đề tài nghiên cứu có tính ứng dụng cao, có khả năng giải quyết những vấn đề cấp thiết trong sản xuất, đời sống, cũng như đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế – xã hội. Bước tiếp theo sau phiên họp Ngay sau khi hoàn tất các phiên họp, NAFOSTED sẽ thông báo kết quả rà soát tới các tổ chức chủ trì và chủ nhiệm đề tài. Những hồ sơ không đáp ứng điều kiện sẽ được hướng dẫn chi tiết để chỉnh sửa, bổ sung và nộp lại theo Thông báo mời nộp hồ sơ đợt 2 năm 2025 (xem chi tiết). Đây là cơ hội để các nhà khoa học hoàn thiện đề xuất nghiên cứu, tăng tính cạnh tranh và khả năng được lựa chọn tài trợ. Có thể nói, chuỗi 12 phiên họp HĐKH không chỉ là một thủ tục hành chính đơn thuần, mà còn là bước khởi đầu quan trọng, thể hiện quyết tâm đổi mới của NAFOSTED trong việc đồng hành cùng giới khoa học. Qua hoạt động này, Quỹ tiếp tục khẳng định vai trò là cầu nối thúc đẩy nghiên cứu khoa học ứng dụng, góp phần đưa các kết quả nghiên cứu đến gần hơn với thực tiễn sản xuất, đời sống và phục vụ sự phát triển của đất nước.  

Tin tức

NAFOSTED đổi mới hoạt động đánh giá nhiệm vụ KH&CN: Nghiên cứu ứng dụng thành động lực phát triển

“Biến ý tưởng thành sản phẩm, biến nghiên cứu thành giá trị, biến kỳ vọng thành hiện thực”, đó là thông điệp mạnh mẽ của lãnh đạo Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Quốc gia (NAFOSTED) tại Hội thảo “Đổi mới hoạt động đánh giá nhiệm vụ KH&CN trong nghiên cứu ứng dụng (NCƯD) do Quỹ tài trợ” diễn ra ngày 22/8/2025, tại Đại học Bách khoa Hà Nội, đánh dấu bước đi mới khẳng định vai trò tiên phong của NAFOSTED trong việc đồng hành cùng các nhà khoa học đưa tri thức phục vụ phát triển đất nước. Toàn cảnh Hội thảo. Đổi mới cơ chế, thúc đẩy NCƯD gắn với thực tiễn, tạo đà phát triển bền vững Phát biểu khai mạc, ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED gửi lời tri ân tới các thành viên Hội đồng khoa học (HĐKH) NCƯD nhiệm kỳ trước vì những đóng góp bền bỉ, tâm huyết trong việc xét duyệt, phản biện, nghiệm thu hàng trăm đề tài, xây dựng được những chuẩn mực học thuật cho hoạt động NCƯD tại Việt Nam. Đồng thời, đánh giá cao sự tham gia của HĐKH nhiệm kỳ 2024 – 2026 – nơi quy tụ các chuyên gia chuyên sâu, đa lĩnh vực và giàu kinh nghiệm thực tiễn, hứa hẹn sẽ mở rộng không gian tài trợ, nâng cao chất lượng NCƯD và gia tăng tác động đối với đời sống kinh tế – xã hội. Năm 2025 là năm đầu tiên triển khai hai văn kiện chiến lược: Nghị quyết 57-NQ/TW và Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST). Đây là những nền tảng thể chế vững chắc, mở đường cho KH,CN&ĐMST phát huy vai trò trụ cột trong mô hình tăng trưởng mới của đất nước. Theo đó, một trong những đột phá lớn được Luật ghi nhận là việc cho phép các Quỹ KH&CN công lập như NAFOSTED tài trợ nhiệm vụ theo hình thức đặt hàng, tài trợ đồng tài chính (co-funding) và tài trợ theo cụm nhiệm vụ – những điều trước đây còn chưa có hành lang pháp lý rõ ràng. Ông Đào Ngọc Chiến nhấn mạnh, các nhà khoa học, thành viên Hội đồng và cơ quan tài trợ cần cùng thay đổi tư duy: Từ nghiên cứu hàn lâm sang nghiên cứu vì giá trị gia tăng; từ đầu vào sang đầu ra; từ tách biệt sang kết nối. “NAFOSTED sẽ đẩy mạnh đổi mới công cụ quản lý: Ứng dụng nền tảng số trong quản lý đề tài; thống kê – phân tích dữ liệu lịch sử để hỗ trợ xét chọn có căn cứ; Xây dựng bộ chỉ số đánh giá tác động và khả năng ứng dụng của các đề tài”. Theo đó, chương trình NCƯD năm 2025 sẽ triển khai theo bốn định hướng lớn gồm: Thứ nhất, phân định rõ loại hình nhiệm vụ. Quỹ sẽ duy trì hai hướng triển khai: Tài trợ theo đề xuất mở, dành cho các nhóm nghiên cứu đưa ra giải pháp cho những vấn đề phổ quát; tài trợ theo đặt hàng, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ, địa phương và doanh nghiệp. Thứ hai, tăng cường đánh giá đa chiều. Ngoài yếu tố KH&CN, các nhiệm vụ sẽ được đánh giá trên cơ sở tính khả thi triển khai, mức độ sẵn sàng thương mại hóa và khả năng tạo tác động kinh tế – xã hội. Đặc biệt, các chuyên gia ứng dụng, chuyên gia doanh nghiệp và đại diện người sử dụng công nghệ sẽ tham gia sâu hơn vào quá trình phản biện. Thứ ba, thí điểm cụm nhiệm vụ và chuỗi nghiên cứu. Quỹ sẽ lựa chọn một số lĩnh vực có tính lan tỏa cao như nông nghiệp thông minh, năng lượng tái tạo, xử lý rác thải, y tế cộng đồng… để tài trợ nhiều đề tài liên hoàn, cùng hướng tới một kết quả cuối cùng có thể triển khai trong thực tiễn. Thứ tư, tăng cường hỗ trợ sau tài trợ. Cơ quan điều hành sẽ đóng vai trò “nhạc trưởng” kết nối các nhóm nghiên cứu với quỹ đổi mới sáng tạo địa phương, các chương trình ươm tạo công nghệ và doanh nghiệp có năng lực thương mại hóa sản phẩm. Ông bày tỏ kỳ vọng, các HĐKH sẽ không chỉ là nơi thẩm định, đánh giá, mà còn trở thành cánh tay định hướng chính sách, khuyến khích tinh thần khoa học phụng sự xã hội, lan tỏa giá trị ĐMST đến từng ngành, từng địa phương. Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED phát biểu khai mạc Hội thảo. Về các quy định mới trong quản lý và đánh giá đề tài, ông Nguyễn Phú Bình, Phó Giám đốc NAFOSTED cho biết, Thông tư số 15/2016/TT-BKHCN (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 10/2024/TT-BKHCN đã tập trung vào việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính linh hoạt và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu. Cụ thể, thời gian thực hiện đề tài là 36 tháng, việc đánh giá sẽ được thực hiện thông qua Hội đồng KH&CN cùng chuyên gia tư vấn độc lập, hồ sơ nộp hoàn toàn trực tuyến (loại bỏ việc bảo vệ trực tiếp); bổ sung các khoản chi như tham dự hội nghị quốc tế, ưu tiên cấp kinh phí theo cơ chế quỹ chấp nhận rủi ro và khoán chi nguyên vật liệu. Đặc biệt, thu nhập từ tiền lương, tiền công từ thực hiện nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước sẽ không chịu thuế thu nhập cá nhân, và việc quản lý, sở hữu kết quả nghiên cứu cũng được làm rõ hơn. Đáng chú ý, Quỹ sẽ đơn giản hóa và đẩy mạnh nộp hồ sơ trực tuyến qua hệ thống OMS; tổ chức chủ trì và chủ nhiệm

Kết quả tài trợ nổi bật, Tin tức

Mô hình trồng hoa ứng dụng công nghệ cao – hướng đi mới cho nông nghiệp ven đô Hà Nội

Giữa nhịp chuyển mình mạnh mẽ của nền nông nghiệp Thủ đô, một mô hình đặc biệt đang lặng lẽ nở rộ nơi vùng ven đô Gia Lâm – mô hình trồng hoa lan hồ điệp và hoa đồng tiền ứng dụng công nghệ tiên tiến. Không chỉ tạo nên những vườn hoa rực rỡ sắc màu, dự án còn mở ra một hướng đi mới: kết hợp giữa khoa học hiện đại và kinh nghiệm canh tác truyền thống, từ đó nâng cao thu nhập cho nông dân, phát triển kinh tế nông thôn và tiến tới nền nông nghiệp sinh thái, thông minh và bền vững. Dự án mang tên “Ứng dụng công nghệ tiên tiến xây dựng mô hình sản xuất hoa lan hồ điệp và hoa đồng tiền trồng chậu cho vùng ngoại thành Hà Nội” được khởi động từ cuối năm 2022, thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số đoạn 2016–2025 do Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt. Tổ chức chủ trì là Công ty TNHH Nông nghiệp Công nghệ cao Gia Lâm, phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hoa, Cây cảnh, Viện Nghiên cứu Rau quả là Tổ chức hỗ trợ ứng dụng công nghệ. Với tổng kinh phí lên tới 7,5 tỷ đồng (trong đó 3,38 tỷ là vốn từ ngân sách trung ương), dự án đặt mục tiêu hình thành mô hình sản xuất hoa chất lượng cao, ứng dụng đồng bộ công nghệ hiện đại, đồng thời đào tạo kỹ thuật và chuyển giao tri thức cho nông dân địa phương. Không giống những dự án “trình diễn công nghệ” chỉ mang tính hình thức, mô hình tại Gia Lâm được triển khai bài bản với hai loại cây trồng chủ lực: hoa lan hồ điệp và hoa đồng tiền – hai loại hoa có giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn, đặc biệt vào dịp lễ Tết. Trên diện tích 1.700m² nhà màng, mô hình hoa lan hồ điệp cho ra 30.000 cây thương phẩm mỗi năm, cùng 30.000 cây lan 12 tháng tuổi làm giống. Cây phát triển khỏe, tỷ lệ đạt chuẩn trên 90%, hoa nở đều, đúng thời điểm, bền màu và có giá trị cao. Trong khi đó, mô hình hoa đồng tiền được triển khai trên 4.000m² đất, sản xuất 32.000 chậu mỗi năm. Cây sinh trưởng đồng đều, cao 25–30cm, 3–4 nụ hoa/chậu, giữ hoa lâu, được thị trường tiêu dùng đánh giá cao về chất lượng. Hình 1: mô hình sản xuất hoa lan hồ điệp           Điểm nổi bật nhất của dự án chính là việc ứng dụng toàn diện các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất. Hệ thống nhà màng được đầu tư hiện đại, trang bị điều hòa công nghiệp hai chiều để kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm. Các khâu tưới tiêu, phun sương, bổ sung dinh dưỡng đều được điều khiển tự động bằng hệ thống cảm biến và phần mềm quản lý thông minh. Cây giống được nuôi cấy mô trong phòng thí nghiệm đảm bảo sạch bệnh, đồng nhất về chất lượng và sinh trưởng ổn định. Nhờ vậy, toàn bộ quá trình sản xuất hoa gần như không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết – điều mà phương pháp canh tác truyền thống khó kiểm soát được. Hình 2: mô hình sản xuất hoa đồng tiền           Cùng với việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật, dự án cũng đặc biệt chú trọng công tác đào tạo và chuyển giao công nghệ. Sáu kỹ thuật viên của doanh nghiệp đã được đào tạo bài bản, nắm vững quy trình trồng, chăm sóc và xử lý sinh trưởng của cây hoa. Đồng thời, hai lớp tập huấn đã được tổ chức, với sự tham gia của hơn 100 lượt nông dân tại địa phương. Những người từng quen tay với cây lúa, luống rau giờ đây đã biết cách theo dõi chỉ số cây trồng trên điện thoại, điều chỉnh lượng nước tưới qua hệ thống điều khiển, và quan trọng nhất – họ bắt đầu tin vào sự thay đổi của một nền nông nghiệp công nghệ cao, xanh và sạch. Bên cạnh sản xuất, dự án còn chủ động trong khâu tiêu thụ và quảng bá sản phẩm. Các sản phẩm hoa lan và hoa đồng tiền từ mô hình hiện đang được tiêu thụ tại chỗ, kết nối với hệ thống phân phối trong thành phố, tham gia các hội chợ, triển lãm hoa, đồng thời thử nghiệm bán hàng qua mạng xã hội và sàn thương mại điện tử. Những bông hoa không chỉ mang giá trị thẩm mỹ, mà còn là thông điệp về sự đổi mới, hiện đại hóa trong cách nghĩ – cách làm của nông dân vùng ven đô. Hình 3: bán buôn sản phẩm tại mô hình và đưa sản phẩm tham gia các hội chợ, triển lãm hoa           Hiệu quả bước đầu của mô hình đã được ghi nhận rõ rệt: thu nhập từ mô hình cao gấp 4–5 lần so với cây trồng truyền thống, tạo việc làm cho nhiều lao động tại địa phương, giảm đáng kể chi phí sản xuất nhờ tiết kiệm nước, điện và phân bón. Đặc biệt, vào dịp Tết Nguyên đán, mô hình hoa lan hồ điệp đã cung ứng hàng chục nghìn giò hoa chất lượng cao cho thị trường Hà Nội và các tỉnh lân cận, góp phần giảm nhập khẩu, tăng giá trị sản phẩm nội địa.           Từ thành công tại Gia Lâm, các chuyên gia nhận định mô hình này hoàn toàn có thể nhân rộng sang các vùng chuyên canh hoa khác như Mê Linh, Đan Phượng, Bắc

Thông báo

Thông báo về việc nộp Báo cáo định kỳ đối với các đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ

Theo Quy định về việc tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) tài trợ và hợp đồng nghiên cứu khoa học đã ký giữa Quỹ với các tổ chức chủ trì, chủ nhiệm đề tài, Quỹ tổ chức đánh giá định kỳ các đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ tài trợ thực hiện. Đề nghị các chủ nhiệm đề tài và tổ chức chủ trì đề tài được Quỹ tài trợ thực hiện từ năm 2023 và từ năm 2024 lập báo cáo định kỳ tình hình thực hiện đề tài, tình hình sử dụng kinh phí của đề tài (phần kinh phí đã thanh toán tại kho bạc) và nộp tới Quỹ. Kết quả đánh giá định kỳ là căn cứ để quyết định việc tiếp tục thực hiện hợp đồng.  Cách thức nộp báo cáo: xem tại đây Truy cập vào hệ thống quản lý đề tài trực tuyến (OMS) của Quỹ thông qua tài khoản cá nhân, cập nhật thông tin báo cáo theo hướng dẫn và gửi tới Quỹ. Link truy cập hệ thống OMS: https://e-services.nafosted.gov.vn/ Sau khi hoàn thiện báo cáo trên hệ thống OMS, chủ nhiệm đề tài, lãnh đạo tổ chức chủ trì ký số báo cáo và đóng dấu số tổ chức chủ trì (bao gồm báo cáo chuyên môn và báo cáo tài chính), tải lên hệ thống OMS. (Lưu ý: Quỹ không tiếp nhận báo cáo định kỳ  bản giấy theo thông báo https://nafosted.gov.vn/trien-khai-ky-dien-tu-trong-qua-trinh-thuc-hien-tai-tro-ho-tro-cua-quy-phat-trien-khcn-quoc-gia/). Thời hạn tiếp nhận báo cáo: + Trước 17h00 ngày 15/9/2025 (Thứ Hai) đối với các đề tài ký hợp đồng ngày 09/9/2024. + Trước 17h00 ngày 16/10/2025 (Thứ Sáu) đối với các đề tài ký hợp đồng ngày 10/10/2023. + Trước 17h00 ngày 10/12/2025 (Thứ Tư) đối với các đề tài không thuộc hai trường hợp trên. (Các chủ nhiệm đề tài lưu ý: hệ thống OMS sẽ tự động đóng sau thời gian trên). Cơ quan điều hành Quỹ sẽ tiến hành kiểm tra trực tiếp tại đơn vị đối với một số đề tài trong trường hợp cần thiết. Quỹ thông báo kết quả đánh giá định kỳ tới các tổ chức chủ trì và chủ nhiệm đề tài trong vòng 02 tháng kể từ ngày kết thúc đợt tiếp nhận báo cáo.

Kết quả tài trợ nổi bật, Kết quả tài trợ nổi bật - NCCB KHTN

Hiệu ứng Kondo điện tích và đóng góp nổi bật của nhà khoa học Việt Nam

Hiệu ứng Kondo là một hiện tượng vật lý đặc biệt, được quan sát trong các kim loại có pha tạp các nguyên tử mang từ tính. Khác với tính chất thường thấy ở kim loại nguyên chất – nơi điện trở suất giảm khi nhiệt độ giảm – trong các hệ có tạp chất từ, điện trở suất lại tăng khi nhiệt độ hạ thấp. Nguyên nhân của hiện tượng này là do tương tác từ giữa spin của các điện tử dẫn và spin của các tâm tạp. Mặc dù hiệu ứng này đã được phát hiện trong thực nghiệm từ năm 1934, phải đến năm 1964, nhà vật lý người Nhật Jun Kondo mới đưa ra lời giải thích lý thuyết thuyết phục cho hiện tượng trên, từ đó hiệu ứng mang tên ông. Điều đáng chú ý là các hiện tượng tương tự hiệu ứng Kondo thông thường cũng có thể xảy ra ngay cả khi không có bậc tự do từ tính. Chúng xuất hiện bất cứ khi nào tồn tại sự suy biến lượng tử liên kết với một thể liên tục. Một ví dụ điển hình là hiệu ứng Kondo điện tích, trong đó các trạng thái suy biến liên quan đến điện tích – thay vì spin – đóng vai trò trung tâm. Một trong những hệ vật lý tiêu biểu để nghiên cứu hiện tượng này là các chấm lượng tử: những đảo kim loại cực nhỏ, nơi các điện tử bị giam giữ trong cả ba chiều không gian, dẫn đến sự lượng tử hóa các mức năng lượng. Hiệu ứng Kondo điện tích lần đầu tiên được đề xuất trong các mô hình lý thuyết bởi Flensberg, Matveev và Furusaki trong giai đoạn 1993–1995. Tại Việt Nam, nghiên cứu lý thuyết về hiệu ứng này đã được TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nghiên cứu trong khuôn khổ hợp tác với GS. Mikhail Kiselev, Trung tâm Vật lý Lý thuyết Quốc tế Abdus Salam. Bước ngoặt thực nghiệm quan trọng xảy ra vào năm 2015, khi nhóm nghiên cứu của GS. Frédéric Pierre tại Đại học Paris-Saclay thành công trong việc thiết lập các thí nghiệm xác thực hiệu ứng Kondo điện tích. Thành tựu này không chỉ củng cố cơ sở lý thuyết mà còn mở đường cho việc nghiên cứu các biến thể phức tạp hơn như hiệu ứng Kondo đa kênh, nơi một bậc tự do lượng tử hóa (spin hoặc điện tích) được liên kết đồng thời với nhiều điện cực độc lập. Năm 2017, tại Hội nghị quốc tế “Vật lý nano: từ cơ bản đến ứng dụng – Sự trở lại” tổ chức tại Quy Nhơn, Việt Nam, TS. Nguyễn Thị Kim Thanh đã có cơ hội gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với GS. Frédéric Pierre, người trình bày về các kết quả mới nhất liên quan đến hiệu ứng Kondo điện tích ba kênh – một hiện tượng có độ phức tạp cao trong vật lý chất rắn. Khi đó, các mô hình lý thuyết cho trường hợp hai kênh đã được công bố, và TS. Kim Thanh đã bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến việc phát triển mô hình lý thuyết cho trường hợp ba kênh. Sự hợp tác nghiên cứu đã được cụ thể hóa qua công trình khoa học mang tên “Truyền dẫn nhiệt điện trong mạch Kondo điện tích ba kênh”, đăng trên tạp chí Physical Review Letters (Số 125, trang 026801, năm 2020). Bài báo là một phần trong đề tài nghiên cứu “Truyền dẫn điện tử không cân bằng qua các hệ chấm lượng tử trong chế độ Kondo” (mã số 103.01-2020.05) được Quỹ Nafosted tài trợ, góp phần làm sâu sắc thêm hiểu biết về truyền dẫn lượng tử và các hiệu ứng tương quan mạnh trong các hệ nano. Hình 1. Sơ đồ mạch Kondo điện tích ba kênh trong công trình “Truyền dẫn nhiệt điện trong mạch Kondo điện tích ba kênh”, được đăng trên tạp chí Physical Review Letter năm 2020 (Physical Review Letters 125, 026801 (2020)). Hình minh họa đi kèm mô tả một trong những thiết lập tiêu biểu nhất để quan sát hiệu ứng Kondo điện tích, được xây dựng dựa trên một bóng bán dẫn điện tử đơn. Trong đó, một chấm lượng tử kim loại lớn được liên kết mạnh với ba điện cực thông qua ba tiếp điểm lượng tử đơn mode, gần như truyền dẫn hoàn toàn. Cấu trúc này được gọi là “máng”. Sự suy biến của trạng thái điện tích trong chấm lượng tử có thể được mô hình hóa tương tự như spin giả: các điện tử đi vào chấm tương ứng với “giả spin hướng lên”, trong khi các điện tử đi ra tương ứng với “giả spin hướng xuống”. Quá trình đảo chiều giả spin này xảy ra tại các tiếp điểm lượng tử, đóng vai trò như điểm giao tiếp giữa chấm và các điện cực. Số lượng tiếp điểm lượng tử trong thiết lập này tương ứng trực tiếp với số kênh Kondo – một yếu tố quyết định đến tính chất vật lý của hệ. Trong loạt thí nghiệm do nhóm của GS. Frédéric Pierre thực hiện, dòng điện biên được tạo ra trong chế độ Hall lượng tử nguyên đóng vai trò chủ đạo. Hệ được duy trì trong trạng thái cân bằng nhiệt động cục bộ trong vùng máng, trong khi một điện cực bổ sung – gọi là nguồn – được liên kết yếu với chấm lượng tử và được duy trì ở nhiệt độ cao hơn. Sự chênh lệch nhiệt độ tại liên kết yếu này tạo điều kiện để khảo sát hiện tượng truyền dẫn nhiệt điện lượng tử. Tại liên kết yếu, điện tử có thể “chui ngầm” vào hoặc ra khỏi chấm

Sự kiện, Tin tức

Kết nối doanh nghiệp với quốc gia: Khảo sát nhiệm vụ công nghệ cao tại Khánh Hòa

Trong hai ngày 15-16/8/2025, đoàn công tác do ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) làm trưởng đoàn đã khảo sát và làm việc với các tổ chức, doanh nghiệp tại Khánh Hòa nhằm xác định nhiệm vụ tiềm năng thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. Tại đây, đoàn đã khảo sát và làm việc với Công ty Cổ phần Cơ khí Vina Nha Trang và Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ số A+; đồng thời ghi nhận các đề xuất nhiệm vụ từ địa phương, tạo cơ sở xây dựng danh mục nhiệm vụ để triển khai Chương trình hiệu quả. Tại buổi làm việc với Công Ty Cổ phần Cơ Khí Vina Nha Trang, doanh nghiệp có kinh nghiệm trong chế tạo dây chuyền thiết bị chế biến nông sản, đoàn công tác ghi nhận định hướng phát triển của đơn vị theo hướng tích hợp giải pháp công nghệ và gia tăng giá trị sản phẩm. Đoàn khảo sát làm việc với Công ty Cổ phần Cơ khí Vina Nha Trang. Doanh nghiệp hiện sở hữu đội ngũ hơn 350 kỹ sư, công nhân tay nghề cao, cùng cơ sở vật chất hiện đại với hệ thống robot hàn, cắt, dây chuyền tự động. Trong quản trị, công ty đã số hóa quy trình, triển khai ERP, AI, lập trình điều khiển tự động, tiến tới mô hình “nhà máy không giấy”. Không chỉ tiên phong chuyển đổi số trong ngành chế biến nông sản, Vina Nha Trang còn hợp tác với đối tác Đức để làm chủ công nghệ, từng bước khẳng định uy tín quốc tế. Đặc biệt, công ty đang nghiên cứu công nghệ sản xuất cà phê Cascara hòa tan – giải pháp biến phụ phẩm thành sản phẩm kinh tế xanh, dự kiến trong tương lai sẽ xây dựng 2 nhà máy chế biến Cascara tại Sơn La và Tây Nguyên; tương ứng với hai vùng nguyên liệu chủ lực Arabica và Robusta. Đại diện Công ty Cổ phần Cơ khí Vina Nha Trang bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được sự đồng hành và hỗ trợ từ phía Nhà nước, các bộ, ngành, NAFOSTED để triển khai các bước đi chiến lược một cách hiệu quả và bền vững. Đoàn khảo sát các công nghệ, dây chuyền chế biến của Công ty. Đoàn công tác cũng có buổi làm việc với Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ số A+. Doanh nghiệp này đang xây dựng hệ sinh thái công nghệ số A+ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và mở rộng kinh doanh bền vững. Trong đó, tập trung vào việc xây dựng giải pháp, triển khai dự án thực tế và hợp tác mở rộng gồm: Tư vấn triển khai các dự án chuyển đổi số cho doanh nghiệp; Xây dựng các giải pháp hệ sinh thái số như hệ sinh thái doanh nghiệp, hệ sinh thái dành cho hiệp hội, câu lạc bộ…; Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình kinh doanh số bền vững. Theo đại diện công ty, mục tiêu không chỉ dừng lại ở việc cung cấp “giải pháp all-in-one” mà còn tạo ra thị trường, giúp SME dễ dàng đóng gói và triển khai chuyển đổi số chỉ với “một cú nhấp chuột”. Công ty đã thử nghiệm thành công trên một số hệ thống bán lẻ thảo dược, mô hình thương mại số địa phương và đang mở rộng ra 34 tỉnh thành. Đoàn khảo sát chụp ảnh với Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ số A+. Tại các buổi làm việc, đại diện NAFOSTED ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, đồng thời góp ý để các đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ của doanh nghiệp bám sát tiêu chí quốc gia, đặc biệt về tính mới, giải pháp công nghệ, khả năng thương mại hóa… Ông Đào Ngọc Chiến nhấn mạnh, các dự án cần tập trung, cụ thể hóa sản phẩm, mô hình triển khai và chỉ số đánh giá để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Nhà nước sẵn sàng đồng hành, hỗ trợ đăng ký sáng chế, bảo hộ sở hữu trí tuệ, cũng như kết nối nguồn lực để các doanh nghiệp triển khai thành công chiến lược đổi mới. Chuyến khảo sát tại Khánh Hòa được kỳ vọng sẽ mở ra những hướng đi mới, từ công nghệ chế biến sâu phụ phẩm cà phê đến nền tảng chuyển đổi số toàn diện, góp phần đưa khoa học và công nghệ trở thành động lực then chốt cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế số ở Việt Nam. Nguồn: Trung tâm truyền thông KH&CN  

Sự kiện, Tin tức

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ bổ nhiệm lại hai Phó Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia

Chiều ngày 15/8/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Lễ công bố và trao các quyết định về công tác cán bộ. Buổi lễ do Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chủ trì, với sự tham dự của Thứ trưởng Bùi Thế Duy và Thứ trưởng Lê Xuân Định. Tại buổi lễ, Vụ Tổ chức Cán bộ đã công bố các quyết định của Bộ trưởng Bộ KH&CN về công tác cán bộ, trong đó có các quyết định bổ nhiệm lại có thời hạn đối với ông Lê Tài Dũng và ông Lê Đình Hanh, giữ chức vụ Phó Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã trao quyết định, tặng hoa và gửi lời chúc mừng đến các cán bộ được nhận quyết định. Phát biểu nhận nhiệm vụ, thay mặt các cán bộ được bổ nhiệm lại, Phó Giám đốc Lê Đình Hanh bày tỏ niềm vinh dự trước sự tin tưởng của Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ và Lãnh đạo Bộ. Ông khẳng định sẽ tiếp tục nỗ lực, phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo trong công tác điều hành, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tài trợ và hỗ trợ các nhiệm vụ khoa học, công nghệ cấp quốc gia. PGĐ. Lê Đình Hanh phát biểu nhận nhiệm vụ tại buổi lễ Phát biểu chỉ đạo, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chúc mừng và giao nhiệm vụ cho hai Phó Giám đốc, đồng thời bày tỏ tin tưởng các đồng chí sẽ phát huy năng lực, khơi dậy tiềm năng đổi mới sáng tạo, góp phần xây dựng Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia trở thành cầu nối quan trọng trong việc thúc đẩy khoa học, công nghệ và chuyển đổi số, qua đó đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu chỉ đạo và giao nhiệm vụ Trong hơn 15 năm hoạt động, Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED) đã khẳng định vai trò là công cụ tài chính hữu hiệu của Nhà nước trong việc tài trợ nghiên cứu khoa học và hỗ trợ phát triển tiềm lực KH&CN quốc gia. Quỹ đã triển khai hàng nghìn đề tài nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, nhiều trong số đó được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín, góp phần nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời, Quỹ cũng là đầu mối quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác nghiên cứu song phương, đa phương, cũng như triển khai các nhiệm vụ gắn kết nghiên cứu với đổi mới sáng tạo và nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội. Việc bổ nhiệm lại lãnh đạo Cơ quan điều hành Quỹ lần này không chỉ bảo đảm sự ổn định và kế thừa trong công tác quản lý, điều hành, mà còn thể hiện sự quan tâm của Lãnh đạo Bộ KH&CN trong việc củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ. Đây là tiền đề quan trọng để Quỹ tiếp tục thực hiện tốt sứ mệnh hỗ trợ, khuyến khích, đồng hành cùng đội ngũ nhà khoa học Việt Nam, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của đất nước.

Sự kiện, Tin tức

NAFOSTED đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực đề xuất nhiệm vụ KHCN,ĐMST&CĐS trong nông nghiệp xanh

Hợp tác quốc tế (HTQT), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) đang mở ra cơ hội bứt phá cho nông nghiệp Việt Nam theo hướng xanh, bền vững và hội nhập sâu rộng. Thông qua cơ chế tài trợ linh hoạt, minh bạch và giàu tính kết nối, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đã hỗ trợ hàng nghìn nhiệm vụ nghiên cứu chất lượng cao, tạo ra nhiều công trình có giá trị ứng dụng. Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo khoa học “Tăng cường hợp tác quốc tế và nâng cao năng lực đề xuất nhiệm vụ khoa học, ĐMST&CĐS trong phát triển nông nghiệp xanh” do NAFOSTED tổ chức ngày 15/8/2025 tại Nha Trang, quy tụ đông đảo nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế. Toàn cảnh Hội thảo. Cơ chế mở, tạo cú hích HTQT, thúc đẩy sáng kiến nông nghiệp xanh Phát biểu khai mạc, PGS.TS. Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED nhấn mạnh, nông nghiệp xanh đang trở thành xu thế toàn cầu; đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của nhiều chủ thể, trong đó nghiên cứu khoa học, ĐMST, công nghệ số và HTQT đóng vai trò then chốt. Với chức năng tài trợ các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, HTQT và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, những năm qua, NAFOSTED đã tài trợ hàng nghìn nhiệm vụ nghiên cứu khoa học chất lượng cao, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm; nhiều công trình trong số đó được công bố quốc tế uy tín, có tác động lan tỏa lớn trong cộng đồng khoa học; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học, tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp và địa phương cùng phát huy sáng kiến và xây dựng các giải pháp hiệu quả cho phát triển bền vững. Bên cạnh đó, hoạt động HTQT của Quỹ ngày càng mở rộng, thiết lập mối quan hệ với hơn 20 đối tác ở các nước phát triển, tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam tiếp cận các chương trình tài trợ song phương, đa phương, nâng cao năng lực và mở rộng không gian nghiên cứu. Theo ông Đào Ngọc Chiến, để tận dụng hiệu quả hơn nữa các cơ hội tài trợ quốc tế và huy động nguồn lực toàn xã hội cho nghiên cứu khoa học và ĐMST, cần tiếp tục nâng cao chất lượng đề xuất nhiệm vụ, đổi mới tư duy triển khai, cũng như chú trọng đến các yếu tố như sở hữu trí tuệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu và liên kết ứng dụng thực tiễn; đặc biệt trong lĩnh vực có tiềm năng như nông nghiệp xanh. Ông Đào Ngọc Chiến kỳ vọng, sau Hội thảo, nhiều ý tưởng sáng tạo sẽ được hình thành, nhiều đề xuất chất lượng sẽ được xây dựng và đặc biệt là nhiều mối quan hệ hợp tác chiến lược sẽ được khởi động – góp phần đưa KHCN,ĐMST&CĐS thực sự trở thành động lực phát triển nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng xanh, bền vững và hội nhập. PGS.TS. Đào Ngọc Chiến, Giám đốc NAFOSTED phát biểu khai mạc Hội thảo. Giới thiệu tổng quan về cơ chế tài trợ hoạt động HTQT của Quỹ, TS. Nguyễn Phú Bình, Phó Giám đốc NAFOSTED cho biết, NAFOSTED hiện đang triển khai ba loại hình nhiệm vụ HTQT, gồm: Nhiệm vụ Nghị định thư; Hợp tác song phương; Hợp tác đa phương. Các nhiệm vụ HTQT được triển khai qua ký kết MOU giữa hai nước; tổ chức kết nối các nhà khoa học hai nước; kêu gọi tài trợ chung; đánh giá, tài trợ, triển khai và nghiệm thu; trong đó nhà khoa học được chủ động đề xuất nội dung, sản phẩm và không phải “bảo vệ” trực tiếp trước hội đồng. Điểm mới trong quản lý tài trợ là ưu tiên cấp kinh phí theo cơ chế quỹ, chấp nhận rủi ro khi không đạt kết quả như dự kiến, cho phép khoán chi nguyên vật liệu, trang thiết bị và miễn thuế thu nhập cá nhân đối với khoản chi từ ngân sách nhà nước cho nhiệm vụ KH&CN. Thủ tục hồ sơ, chứng từ và thanh toán cũng được đơn giản hóa… Trong giai đoạn tới, Quỹ định hướng hoàn thiện cơ chế, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục, tương thích quốc tế; đẩy mạnh các lĩnh vực được ưu tiên như công nghệ chiến lược, công nghệ cao…; tăng kinh phí, số lượng nhiệm vụ và tổng kinh phí cho các nhiệm vụ HTQT; mở rộng hợp tác với Mỹ, Canada, Úc…; tăng số lượng nhiệm vụ ở mỗi nước; tăng chất lượng hồ sơ. Qua đó, nâng cao chất lượng nghiên cứu NAFOSTED – đóng vai trò cầu nối thúc đẩy hội nhập KHCN,ĐMST&CĐS. TS. Nguyễn Phú Bình, Phó Giám đốc NAFOSTED giới thiệu tổng quan về cơ chế tài trợ hoạt động HTQT của Quỹ Kinh nghiệm “vàng” để nâng cao chất lượng hồ sơ HTQT Báo cáo tại Hội thảo, Bà Trịnh Quỳnh Trang, Vụ Hợp tác quốc tế cho biết, trong giai đoạn 2021 – 2025, Việt Nam đã ký hơn 90 văn bản hợp tác, thu được trên 2.500 tài liệu từ các nghiên cứu chung, tận dụng hạ tầng và dữ liệu quốc tế. Mục tiêu dài hạn là đưa Việt Nam trở thành trung tâm ĐMST của khu vực với nền tảng KH&CN vững chắc, hệ sinh thái khởi nghiệp năng động và hạ tầng số hiện đại; trong đó, HTQT đóng vai trò quan trọng, kết nối nguồn lực toàn cầu và nâng cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng khoa học thế giới. Bên cạnh đó, bà cũng chia sẻ kinh nghiệm chuẩn

Kêu gọi - NCUD, Kêu gọi đề xuất, Tài trợ, Thông báo, Tin tức

Thông báo mời nộp hồ sơ đăng ký thực hiện đề tài nghiên cứu ứng dụng đợt 2 năm 2025

Căn cứ kế hoạch đã được Hội đồng quản lý Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia phê duyệt, Quỹ thông báo mời nộp hồ sơ đăng ký thực hiện đề tài nghiên cứu ứng dụng đợt 2 năm 2025, cụ thể như sau: 1. Căn cứ pháp lý Đề tài nghiên cứu ứng dụng (NCƯD) do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) tài trợ được quản lý theo quy định tại Thông tư số 15/2016/TT-BKHCN ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định quản lý đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 10/2024/TT-BKHCN ngày 30 tháng 12 năm 2024 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (sau đây gọi tắt là Thông tư 15). Văn bản liên quan: Xem tại đây. 2. Phạm vi và đối tượng tài trợ Quỹ tài trợ kinh phí thực hiện đề tài nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực sau: – Lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học y, dược, khoa học nông nghiệp (sau đây gọi là khoa học tự nhiên và kỹ thuật); – Lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học nhân văn (sau đây gọi là khoa học xã hội và nhân văn). Đối tượng áp dụng: Các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam tham gia đăng ký, thực hiện đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ tài trợ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan. 3. Dự toán kinh phí Dự toán kinh phí được xây dựng dựa trên cơ cấu nhóm nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, kết quả dự kiến theo định mức quy định. Hướng dẫn lập dự toán tham khảo tại phần hướng dẫn chung trong mẫu Dự toán kinh phí. 4. Biểu mẫu và phương thức nộp hồ sơ Mẫu hồ sơ tải tại đây. Hướng dẫn nộp hồ sơ tải tại đây Quỹ khuyến khích nộp hồ sơ đăng ký sử dụng ký số theo chỉ đạo tại Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 04 tháng 02 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cải cách thủ tục hành chính trọng tâm năm 2025. Tài liệu cần được ký số bao gồm đơn đăng ký, thuyết minh (nội dung và dự toán kinh phí), có chữ ký số của Lãnh đạo tổ chức chủ trì và dấu số của Tổ chức chủ trì, không bắt buộc có chữ ký số của Chủ nhiệm đề tài. Hồ sơ ký số được tiếp nhận trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của Quỹ (hệ thống OMS) tại địa chỉ: https://e-services.nafosted.gov.vn 5. Thời gian và địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Thời gian tiếp nhận hồ sơ: Từ 08 giờ 00 ngày 20/8/2025 đến 17 giờ 00 ngày 19/9/2025 Địa chỉ tiếp nhận: Bộ phận một cửa – Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Phòng 1207, Tòa nhà Cục Đổi mới sáng tạo – 113 Trần Duy Hưng, phường Yên Hòa, thành phố Hà Nội). 6. Mốc thời gian triển khai dự kiến Đánh giá xét chọn: Từ tháng 9/2025 đến tháng 12/2025 Thông báo kết quả tài trợ: Tháng 01/2026 Ký hợp đồng, cấp kinh phí đợt 1: Quý 1/2026 (phụ thuộc ngân sách nhà nước được cấp). 7. Các nội dung cần lưu ý khi xây dựng thuyết minh đề tài 7.1. Yêu cầu về thời gian thực hiện và kết quả của đề tài (Điều 9 Thông tư 15) Nội dung Lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn Lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật Thời gian thực hiện 36 tháng Kết quả của đề tài cần nêu rõ: Phương pháp, cách thức mới để giải quyết các vấn đề về xã hội, con người cho các đối tượng, mục tiêu cụ thể. Bí quyết kỹ thuật, phương án, quy trình công nghệ, giải pháp kỹ thuật, giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ. Sản phẩm đăng ký phải đáp ứng: + 02 (hai) bài báo công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín; hoặc + 01 (một) bài báo công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín và 01 (một) bài báo công bố trên tạp chí quốc gia; hoặc: + 01 (một) sách chuyên khảo (đã xuất bản) và 02 (hai) bài báo công bố trên tạp chí quốc gia (chỉ xét với trường hợp do đặc thù của vấn đề nghiên cứu không thể công bố trên các tạp chí quốc tế). + 02 (hai) bằng độc quyền sáng chế hoặc 02 (hai) bằng bảo hộ giống cây trồng; hoặc: + 01 (một) bằng độc quyền sáng chế và 01 (một) bằng bảo hộ giống cây trồng; hoặc: + 01 (một) bằng độc quyền sáng chế hoặc 01 (một) bằng bảo hộ giống cây trồng; và 01 (một) bài báo công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín hoặc 01 (một) bằng bảo hộ độc quyền giải pháp hữu ích. 7.2. Yêu cầu đối với tổ chức chủ trì, chủ nhiệm đề tài và thành viên nhóm nghiên cứu (Điều 8 Thông tư 15) Đối với tổ chức chủ trì đề tài Có tư cách pháp nhân, có năng lực hoạt động phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của đề tài, có đủ các điều kiện cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ hoạt động nghiên cứu của đề tài. Tại thời điểm nộp hồ sơ đăng ký thực hiện đề tài, đã nộp báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện đề tài và hoàn trả kinh phí thu hồi theo quy định đối với các

Kết quả tài trợ nổi bật

Ứng dụng kinh nghiệm quản lý tài nguyên nước ở ĐBSCL (Việt Nam) vào giải quyết bài toán xâm nhập mặn trên LVS Cauto Cộng hòa Cuba

Lưu vực sông Cauto – dòng sông dài nhất và có ý nghĩa rất lớn đối với an ninh lương thực quốc gia của Cuba – đang đối mặt với những thách thức chưa từng có do tác động kép của biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế – xã hội. Với chiều dài hơn 340 km, bắt nguồn từ dãy Sierra Maestra và chảy qua bốn tỉnh trọng điểm nông nghiệp là Granma, Holguin, Santiago de Cuba và Las Tunas, lưu vực này cung cấp nước tưới và sinh hoạt cho khoảng 10% dân số cả nước. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, khu vực này liên tục trải qua các đợt hạn hán nghiêm trọng, đặc biệt trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 hàng năm. Dù có lượng mưa trung bình lên tới 1.200 mm mỗi năm, hệ thống lưu trữ và phân phối nước xuống cấp khiến vùng này thường xuyên lâm vào tình trạng thiếu nước trầm trọng. Ảnh: Viện Khoa học tài nguyên nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trong bối cảnh dữ liệu đo đạc khí tượng tại Cuba còn rất hạn chế, nhóm nghiên cứu do TS.Trần Anh Phương và ThS.Trần Bảo Chung – Viện Khoa học tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã thực hiện “Nghiên cứu hiện trạng nguồn nước mặt và dự báo xâm nhập mặn tại lưu vực sông Cauto làm cơ sở đề xuất các giải pháp tăng cường sản xuất lúa gạo và cải thiện cấp nước cho người dân”, mã số NĐT.100.CU/21, nhiệm vụ được triển khai trong khuôn khổ Nghị định thư hợp tác với Cuba, kinh phí nhiệm vụ được tài trợ thông qua Văn phòng các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ (nay là Quỹ Phát triển khoa học và và công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ). Nhiệm vụ ứng dụng nguồn dữ liệu mưa vệ tinh CHIRPS với độ phân giải cao, kết hợp hiệu chỉnh bằng số liệu từ các trạm đo tại chỗ, để phân tích đặc điểm hạn hán trong không gian và thời gian trên toàn lưu vực. Bằng cách tính toán chỉ số hạn hán SPI (Standardized Precipitation Index) ở ba tháng thời gian 3, 6 và 9 tháng trong giai đoạn 1981–2023, nhóm nghiên cứu đã xác định rõ chu kỳ, cường độ và phạm vi ảnh hưởng của các đợt hạn. Kết quả cho thấy tần suất hạn hán trung bình trong toàn vùng dao động từ 15 đến 17% tổng thời gian, trong đó các đợt hạn nghiêm trọng nhất xảy ra vào các năm 1988, 1992, 1998 và đặc biệt là năm 2004–2005 với chỉ số SPI xuống dưới −2, phản ánh điều kiện khô hạn cực đoan. Điều đáng lưu ý là hạn hán không chỉ diễn ra thường xuyên mà còn có xu hướng gia tăng mức độ nghiêm trọng vào mùa khô. Phân tích thống kê bằng phương pháp Mann–Kendall cho thấy có dấu hiệu giảm dần của chỉ số SPI trong các tháng mùa khô, trong khi các tháng mùa mưa có xu hướng ẩm hơn – một minh chứng rõ rệt cho sự thay đổi của chế độ mưa dưới tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Không chỉ dừng lại ở nhận diện các đợt hạn, nhóm nghiên cứu còn phân tích sâu sắc về sự khác biệt theo địa hình, trong đó các khu vực đồng bằng ở hạ lưu chịu hạn kéo dài và cường độ cao hơn đáng kể so với vùng đồi núi phía thượng nguồn. Để có cái nhìn toàn diện hơn về hiện trạng tài nguyên nước, nhóm tác giả đã phát triển một mô hình tích hợp giữa SWAT (mô phỏng thủy văn) và WEAP (phân bổ nguồn nước) nhằm đánh giá đầy đủ chu trình cung – cầu – cân bằng nước trên toàn lưu vực, cả trong hiện tại và theo kịch bản đến năm 2050. Các kết quả mô phỏng cho thấy tổng nhu cầu sử dụng nước hiện tại của lưu vực sông Cauto khoảng 1.194 triệu mét khối mỗi năm, trong đó 96% dành cho nông nghiệp – chủ yếu là cây lúa và cây trồng cạn. Nhu cầu nước cho sinh hoạt và chăn nuôi chỉ chiếm lần lượt 3% và 1%. Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ 21, tổng nhu cầu nước được dự báo tăng lên 1.394 triệu mét khối mỗi năm (tăng 16,6%), do diện tích canh tác mở rộng theo định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp, trong khi dân số có xu hướng giảm nhẹ. Ở chiều ngược lại, nguồn cung nước không những không tăng mà còn giảm nhẹ (khoảng 2,5%) do hiện tượng bốc hơi mạnh hơn, đặc biệt trong mùa mưa – hệ quả tất yếu của xu thế nhiệt độ tăng. Kết quả là tình trạng mất cân bằng nước ngày càng nghiêm trọng, với tổng lượng thiếu hụt tăng từ 172 triệu mét khối trong hiện tại lên tới 262 triệu mét khối vào năm 2050, tương đương mức tăng hơn 52%. Các vùng có nguy cơ thiếu nước cao nhất là tiểu lưu vực SB3 và SB12 thuộc vùng Bayamo – nơi tập trung sản xuất lúa gạo với nhu cầu nước rất lớn. Trên cơ sở các kết quả này, nhóm nghiên cứu đề xuất loạt giải pháp có tính ứng dụng cao cho quản lý tài nguyên nước và thích ứng với biến đổi khí hậu tại Cuba. Trước hết, cần tiếp tục mở rộng việc sử dụng các mô hình tích hợp như SWAT–WEAP kết hợp dữ liệu vệ tinh CHIRPS, IMERG, ERA5… để xây dựng hệ thống hỗ trợ ra quyết định (DSS) cho các cơ quan quản lý. Hệ thống này có

Lên đầu trang