Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Thái Bình: Mô hình trồng dưa thơm và hoa công nghệ cao – hướng đi bền vững cho nông nghiệp hiện đại

Trong hành trình đổi mới và hiện đại hóa ngành nông nghiệp, tỉnh Thái Bình đã ghi dấu ấn với một mô hình tiêu biểu, kết hợp hài hòa giữa khoa học công nghệ và lợi thế thổ nhưỡng địa phương. Đó là dự án “Ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình sản xuất và xử lý sau thu hoạch một số loại dưa thơm và hoa chất lượng cao gắn với tiêu thụ sản phẩm” do Công ty Cổ phần Thương mại Tổng hợp Toan Vân chủ trì. Dự án được triển khai từ năm 2022 đến năm 2025 thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025;

Dự án tập trung vào ba nhóm nội dung chính: sản xuất cây giống và trồng thương phẩm (dưa thơm, hoa các loại), ứng dụng công nghệ bảo quản – chế biến sau thu hoạch, và xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm. Với mục tiêu đưa sản xuất nông nghiệp lên một tầm cao mới, dự án không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tạo việc làm và nâng cao trình độ kỹ thuật cho người dân.

Một trong những điểm sáng của dự án là việc triển khai đồng thời nhiều mô hình sản xuất quy mô lớn, ứng dụng quy trình VietGAP và công nghệ nhà lưới hiện đại. Cụ thể, mô hình sản xuất cây giống dưa thơm (dưa vàng, dưa vân lưới) đã cung cấp gần 48.000 cây giống đạt tiêu chuẩn, tỷ lệ sống tới 97%. Các mô hình sản xuất dưa thương phẩm gồm: trồng dưa vân lưới trong nhà lưới (5.000 m²/vụ) và trồng dưa vàng ngoài đồng ruộng (2,5 ha/vụ), mỗi năm 2 vụ, cho sản lượng ấn tượng với tổng cộng hơn 272 tấn quả trong hai năm.

Hình 1: mô hình sản xuất dưa thơm

Đáng chú ý, chất lượng dưa đạt tiêu chuẩn cao, độ Brix từ 13,4–15,2%, trọng lượng trung bình mỗi quả gần 1,7kg – đáp ứng nhu cầu thị trường cao cấp. Thời gian thu hoạch ngắn, cây phát triển ổn định, ít sâu bệnh, phù hợp với điều kiện canh tác tại địa phương.

Không chỉ tập trung vào cây ăn quả, dự án còn đầu tư lớn vào sản xuất hoa chất lượng cao. Các loại hoa được lựa chọn gồm tulip, lily, đồng tiền, cúc, lay ơn – đều là những giống có giá trị kinh tế cao, thường được sử dụng trong dịp lễ Tết và nhu cầu trang trí đô thị. Tổng diện tích hoa trồng trong nhà lưới và ngoài đồng ruộng lên tới hơn 6,6 ha trong 2 năm, sản xuất trên 340.000 cây hoa thành phẩm. Trong đó, tỷ lệ cây đạt chất lượng luôn ở mức rất cao: tulip đạt 94%, lily từ 96–98%, hoa đồng tiền và cúc gần như đạt tuyệt đối (99–100%).

Hình 2: mô hình sản xuất hoa chất lượng cao

Một điểm đáng chú ý khác là mô hình sơ chế và bảo quản sau thu hoạch – thường là khâu yếu trong sản xuất nông nghiệp – đã được đầu tư đúng mức. Dưa thơm được sấy lạnh, đạt độ ẩm lý tưởng 5–15%, cho năng suất 5kg khô/100kg tươi. Hoa cúc sấy lạnh cho năng suất 10kg khô/100kg tươi và đã được chứng nhận OCOP 3 sao – khẳng định giá trị gia tăng và khả năng tiêu thụ sản phẩm theo hướng hàng hóa.

Không dừng lại ở sản xuất, dự án còn xây dựng mạng lưới tiêu thụ bài bản với hơn 350.000 cây hoa các loại được phân phối trong và ngoài tỉnh. Sản phẩm không chỉ xuất hiện tại các chợ đầu mối, cửa hàng nông sản mà còn tiếp cận kênh thương mại hiện đại. Đây là bước tiến quan trọng, từng bước hình thành chuỗi giá trị nông sản bền vững từ sản xuất – sơ chế – bảo quản – tiêu thụ.

Về mặt nhân lực, dự án đã đào tạo 10 kỹ thuật viên có tay nghề cao, đồng thời tổ chức tập huấn cho 200 lượt người dân. Hoạt động đào tạo không chỉ giúp chuyển giao công nghệ, mà còn tạo ra đội ngũ “nông dân công nghệ” – những người có thể làm chủ kỹ thuật, sáng tạo trong canh tác và tự tin trong liên kết thị trường.

Có thể khẳng định, mô hình trồng dưa thơm và hoa công nghệ cao tại Thái Bình do Công ty Toan Vân triển khai đã mang lại hiệu quả rõ rệt về kinh tế, xã hội và môi trường. Đây không chỉ là một dự án, mà là một hướng đi thực tiễn, thiết thực và khả thi trong tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn. Kết quả dự án góp phần thiết lập nền sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nâng tầm giá trị sản phẩm địa phương và là cơ sở quan trọng để nhân rộng ra các địa phương khác trong tỉnh và vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Nguồn: Phòng Quản lý nhiệm vụ chuyển tiếp 

 

Lên đầu trang