Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Tên tác giả: admin

Thông báo, Tin sự kiện, Tin tức

Phê duyệt đề tài nghiên cứu ứng dụng do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ thực hiện từ năm 2025

Tại Quyết định số 89/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 19/12/2024, Hội đồng Quản lý Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) đã phê duyệt tài trợ các đề tài Nghiên cứu ứng dụng thực hiện từ năm 2025. Đây là các đề tài được các Hội đồng khoa học Nghiên cứu ứng dụng của Quỹ đánh giá xét chọn từ 97 hồ sơ đề tài đăng ký hợp lệ gửi đến Quỹ vào tháng 8/2024 và được phân bổ theo các hướng nghiên cứu Quỹ ưu tiên tài trợ trong quá trình xét chọn. Thông tin cụ thể các đề tài được phê duyệt xem tại đây. Cơ quan điều hành Quỹ đang thực hiện quy trình thẩm định nội dung thuyết minh và dự toán kinh phí của đề tài thuộc Danh mục nêu trên để trình Hội đồng Quản lý Quỹ phê duyệt kinh phí tài trợ các đề tài trong tháng 12/2024. Ngay sau khi Hội đồng Quản lý Quỹ phê duyệt danh mục kinh phí tài trợ, Cơ quan điều hành Quỹ sẽ thông báo tới các tổ chức chủ trì và chủ nhiệm đề tài để hoàn thiện hồ sơ ký hợp đồng và cấp kinh phí tài trợ đợt 1, dự kiến vào cuối Quý I năm 2025 (theo tiến độ kinh phí nguồn NSNN năm 2025 cấp cho Quỹ). Việc ký Hợp đồng tài trợ thực hiện đề tài nghiên cứu ứng dụng sẽ được thực hiện trên hệ thống quản lý đề tài trực tuyến của Quỹ và sử dụng chữ ký, con dấu số (https://nafosted.gov.vn/thong-bao-trien-khai-ky-dien-tu-doi-voi-cac-hop-dong-thuc-hien-de-tai-nhiem-vu-hoat-dong-do-quy-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-quoc-gia-tai-tro-ho-tro/). Các tổ chức chủ trì và chủ nhiệm đề tài lưu ý chuẩn bị chữ ký và dấu số để việc ký hợp đồng các đề tài được triển khai thuận lợi, theo đúng tiến độ. Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia trân trọng thông báo để các tổ chức, cá nhân có liên quan được biết và phối hợp thực hiện./.

Thông báo, Tin sự kiện, Tin tức

Thông báo về việc báo cáo định kỳ đối với các đề tài tiềm năng do Quỹ tài trợ thực hiện từ tháng 01/2023

Theo Quy định về việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tiềm năng (đề tài tiềm năng) do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) tài trợ và hợp đồng nghiên cứu khoa học đã ký giữa Quỹ với các tổ chức chủ trì, chủ nhiệm đề tài, Quỹ sẽ tổ chức đánh giá định kỳ tình hình thực hiện các đề tài ký hợp đồng triển khai từ tháng 01/2023 (đề tài 36 tháng). Đề nghị các chủ nhiệm đề tài phối hợp với tổ chức chủ trì đề tài lập báo cáo định kỳ tình hình thực hiện đề tài, tình hình sử dụng kinh phí của đề tài và gửi tới Quỹ theo quy định. Kết quả đánh giá định kỳ là căn cứ để quyết định việc tiếp tục cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ. Báo cáo gửi đến Quỹ thông qua 2 bước: 1. Truy cập vào hệ thống quản lý đề tài trực tuyến (E-services) của Quỹ thông qua tài khoản cá nhân, cập nhật thông tin báo cáo theo hướng dẫn và gửi tới Quỹ. Link truy cập hệ thống: https://e-services.nafosted.gov.vn/ Hướng dẫn điền báo cáo định kỳ: xem tại đây 2. Sau khi hoàn thiện báo cáo trên hệ thống, nhà khoa học gửi hồ sơ tới Quỹ theo 1 trong 2 cách sau: Nộp hồ sơ điện tử (ký số) – Ký số bằng chữ ký số của chủ nhiệm đề tài và tổ chức chủ trì đề tài lên tệp hồ sơ (bao gồm báo cáo định kỳ và báo cáo tài chính) và tải lên hệ thống. Nộp hồ sơ bằng bản giấy – Xuất ra từ hệ thống (bao gồm báo cáo định kỳ và báo cáo tài chính), in, ký và xác nhận bằng bút mực xanh, dấu đỏ. – Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ: Văn phòng Quỹ NAFOSTED – phòng 405, số 39 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Quỹ khuyến khích nhà khoa học, tổ chức chủ trì thực hiện thủ tục hành chính trên hệ thống dịch vụ công trực tuyến và sử dụng chữ ký số điện tử. Thời hạn tiếp nhận báo cáo (bao gồm bản trên hệ thống và bản giấy): Trước 17h00 ngày 07/02/2025 (thứ Sáu). Cơ quan điều hành Quỹ sẽ thông báo kết quả đánh giá định kỳ tới các tổ chức chủ trì, chủ nhiệm đề tài (dự kiến) trong tháng 02/2025 và cấp tiếp kinh phí cho các đề tài triển khai đúng kế hoạch được phê duyệt sau đó (theo tiến độ kinh phí nguồn NSNN cấp cho Quỹ năm 2025). Trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có vướng mắc, đề nghị liên hệ Bộ phận một cửa Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia theo số điện thoại: 024 3936 7750 – máy lẻ: 0, 601 hoặc 608; Email: nafosted@most.gov.vn.

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Ô nhiễm vi nhựa trong các loài sò vẹm có ở mức đáng lo ngại?

Với sự tài trợ của NAFOSTED và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, nhóm các nhà khoa học ở ĐH Tài nguyên và Môi trường, Bệnh viện Phổi Trung ương, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam… và các đồng nghiệp Pháp thực hiện nghiên cứu ở vùng duyên hải miền Bắc, trên các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Vi nhựa có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua đường ăn uống. Nguồn: Shutterstock Hiện đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về sự xuất hiện của vi nhựa ở nhiều hệ sinh thái khác nhau, ví dụ như trầm tích bờ biển Đà Nẵng, Tiền Giang, Vũng Tàu sông Sài Gòn và kênh, lõi trầm tích sông Hồng và Tiên Yên… Lo ngại về vi nhựa trên nhuyễn thể hai mảnh vỏ ở Việt Nam, đã có nghiên cứu đánh giá ở Thanh Hóa ghi nhận các nồng độ vi nhựa ở vẹm xanh châu Á (Perna viridis), nghêu Bến (Meretrix lyrata), ngao hai cồi (Tapes dorsatus)… Tuy nhiên vẫn chưa rõ ảnh hưởng của mùa (mùa khô và mùa mưa) và vùng địa lý với sự phân bố của vi nhựa. Nhóm nghiên cứu đặt giả thuyết có thể là cơ chế mùa và vùng địa lý sẽ đem lại những gợi ý về quản lý môi trường và bảo vệ sức khỏe con người. Họ đã thu thập sò huyết và vẹm xanh từ các bãi lầy triều thuộc cửa Ba Lạt, Vân Đồn, Cát Bà, nơi có liên quan trực tiếp đến những hoạt động nhân sinh rất đa dạng như nuôi trồng thủy sản, du lịch, vận tải… Mẫu được lấy trong mùa mưa (tháng 7/2020) và mùa khô (tháng 1/2021). Phân tích cho thấy, nồng độ vi nhựa ở sò huyết từ 1,25 đến 2,67 mảnh/con và từ 0,38 đến 1,48 mảnh/gam khô. Vi nhựa dạng sợi chiếm nhiều nhất trong tổng số vi nhựa với 93 % trong khi dạng mảnh chỉ 7%. Phần lớn dạng sợi có nhiều màu sắc như hồng 26 %, tía 18 %, xanh lam 17%, xám 11% và đen 10%. Dẫu không có xu hướng khác nhau về hình dạng, màu sắc vi nhựa ở ba địa điểm lấy mẫu cũng như theo mùa nhưng có một số thông tin khác như vi nhựa nhỏ nhất là 50 µm, vi nhựa lớn nhất là 2.000 µm và các vi nhựa nhỏ dưới 1 mm chiếm tới hơn 90 % vi nhựa ở mẫu sò huyết. Ở vẹm xanh, nồng độ vi nhựa từ 2,13 đến 6,75 trên một con và từ 0,33 đến 1,36 vi nhựa/gam khô. Tương tự sò huyết, không có sự khác biệt về nồng độ trên các con vẹm xanh, vi nhựa dạng sợi lấn át, chiếm 93 %, còn lại là dạng mảnh. Họ quan sát được 10 dạng màu sắc phổ biến và một nửa vi nhựa ở vẹm xanh từ 100 đến 300 µm (46 %), còn lại là 300 đến 1000 µm (43 %). Phân tích thành phần hóa học cho thấy, chủ yếu là các dạng polymer với 53 % polyethylene (PE) – loại nhựa phổ biến trong bao bì đóng gói; 35 % polypropylene (PP) – loại nhựa nhiệt dẻo thường làm đồ gia dụng, và 12 % polyvinyl chloride (PVC) – loại nhựa nhiệt dẻo trong sản xuất công nghiệp. Sự lấn át của vi nhựa dạng sợi của cả vẹm xanh lẫn sò huyết cho thấy xu hướng ô nhiễm của môi trường nước và trầm tích, từng được khẳng định trong nghiên cứu lấy mẫu ở bốn địa điểm khác nhau trên vịnh Bắc Bộ. Sự khác biệt về các dạng polymer ở hai loài có thể liên quan đến nơi sống của từng loại. Các nhà khoa học cho rằng, nguồn ô nhiễm có thể chủ yếu từ hoạt động du lịch, sinh hoạt và một phần đáng kể của nuôi trồng, đánh bắt thủy sản. Vậy lượng vi nhựa này có ảnh hưởng đến sức khỏe con người? Ước tính, việc ăn các loài sò vẹm chứng tỏ con người có thể phơi nhiễm 900 đến 11.500 vi nhựa/người/năm, không tính đến việc ăn các tạo vật của biển khác, như cá, muối… Tuy nhiên, mức độ phơi nhiễm vi nhựa qua uống nước chai và bia cao gấp 15 lần, còn hít thở, nguồn nhiễm lớn nhất cho người, gấp 3.000 lần so với uống. Nghiên cứu chỉ dấu con người đang phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao do phơi nhiễm vi nhựa qua ba đường chính: ăn uống, hít thở và uống nước. Do đó, họ cho rằng cần có những nghiên cứu tương lai để bổ sung thêm vào cơ sở dữ liệu về nhựa ở Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh vào việc quản lý tốt hơn trong việc sử dụng, tái chế và quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam để bảo vệ môi trường và sức khỏe. Trong quá trình này, có thể sử dụng các loài hai mảnh vỏ như một chỉ thị sinh học về vi nhựa. Bài báo được xuất bản trên Regional Studies in Marine Science, “Occurrence of microplastics in bivalves from the northern coast of Viet Nam”. Tin: Thanh Nhàn – Tạp chí Tia Sáng

Thông báo, Tin sự kiện

Thông báo tiếp nhận hồ sơ đăng ký đề tài thuộc Chương trình hợp tác tài trợ NAFOSTED – UKRI (Vương quốc Anh) 2024

Triển khai theo Biên bản thỏa thuận hợp tác ký kết năm 2024, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) và Tổ chức Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo Vương quốc Anh (UKRI) đại diện bởi Hội đồng nghiên cứu Y khoa (Medical Research Council-MRC) tổ chức tiếp nhận và hợp tác tài trợ các hồ sơ đăng ký đề tài nghiên cứu chung trong khuôn khổ Chương trình Cơ hội tài trợ khu vực Đông Nam Á về các bệnh truyền nhiễm và khả năng kháng kháng sinh (AMR), dự kiến tài trợ thực hiện từ năm 2025. 1. Thông tin về chương trình tài trợ – Lĩnh vực nghiên cứu của đề tài: bệnh truyền nhiễm và kháng kháng sinh (AMR). – Thời gian thực hiện đề tài: 03 năm – Tiêu chí đối với nhóm nghiên cứu đề tài: Mỗi hồ sơ đăng ký phải có thành viên nghiên cứu chủ chốt từ cả Anh và Việt Nam. Nhà khoa học phía Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện đối với Chủ nhiệm đề tài, thành viên nghiên cứu và cơ quan chủ trì theo quy định tại Thông tư 37/2014/TT/BKHCN ngày 12/12/2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ về Quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ. Nhà khoa học phía Vương quốc Anh phải đáp ứng các điều kiện theo các quy định của UKRI. – Cách thức nộp hồ sơ: Hồ sơ đề tài cần được Chủ nhiệm đề tài phía Việt Nam và phía Vương quốc Anh phối hợp chuẩn bị và do Chủ nhiệm đề tài phía Vương quốc Anh đại diện nộp qua hệ thống tiếp nhận hồ sơ trực tuyến “The Funding Service – TFS” (Thông báo tài trợ và hướng dẫn nộp hồ sơ phía Anh xem tại đây); đồng thời Chủ nhiệm đề tài phía Việt Nam nộp 01 bộ bản sao hồ sơ đề tài (được in ra từ hệ thống TFS) tới hệ thống tiếp nhận hồ sơ trực tuyến OMS của Quỹ (Hướng dẫn sử dụng hệ thống OMS, nộp hồ sơ xin tham khảo tại đây). Ngoài ra, theo quy định các thành viên tham gia đề tài cần cập nhật Lý lịch khoa học của chủ nhiệm đề tài và các thành viên nhóm nghiên cứu phía Việt Nam (Khai trực tiếp trên hệ thống OMS). – Dự toán kinh phí đề tài dành cho nhóm nghiên cứu phía Việt Nam: hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 03/2023/TT-BTC của Bộ Tài chính, Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08/05/2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ và các văn bản pháp lý liên quan. – Kinh phí tối đa NAFOSTED tài trợ: 2,5 tỷ đồng/đề tài 2. Thời hạn tiếp nhận hồ sơ: đến 16h00 giờ Vương Quốc Anh – GMT+1 (22:00 giờ Việt Nam) ngày 30/5/2024 3. Văn bản liên quan sử dụng cho nhà khoa học Việt Nam Biên bản thỏa thuận hợp tác giữa NAFOSTED và UKRI năm 2024; Thông tư số 12/2018/TT-BKHCN ngày 31/8/2018 của Bộ Khoa học và Công nghệ Quy định về xây dựng, ký kết và quản lý các chương trình hợp tác quốc tế của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia trong tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, hỗ trợ hoạt động nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia; Thông tư số 03/2023/TT-BTC ngày 10/01/2023 của Bộ Tài chính Quy định lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08/05/2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư số 37/2014/TT-BKHCN ngày 12/12/2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc Quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ; Quyết định số 251/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 11/12/2019 của Hội đồng quản lý Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia về việc ban hành Danh mục tạp chí quốc tế và quốc gia có uy tín trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; Quyết định số 95/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 30/12/2021 của Hội đồng quản lý Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia về việc ban hành Danh mục tạp chí có uy tín áp dụng đối với các đề tài nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật do Quỹ tài trợ; Thông tư liên tịch 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 22/4/2015 của Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính Quỵ định khoán chỉ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư 102/2012/TT-BTC ngày 21/6/2012 của Bộ Tài chính Quy định chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác ngắn hạn ở nước ngoài do ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí; Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính về quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước hỗ trợ; Thông tư số 71/2018/TT-BTC ngày 10/08/2018 của Bộ Tài chính Quy định chế độ tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chế độ chi tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chế độ tiếp khách trong nước; Thông tin chi tiết xin liên hệ: Chị

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Nhà khoa học nữ Việt Nam công bố công trình trên tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới

TS. Nguyễn Thị Ánh Dương, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Việt Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và các nhà khoa học Quốc tế vừa công bố bài báo trên tạp chí Nature – tạp chí khoa học uy tín nhất trên thế giới (7/2019). Công trình ghi nhận sự tài trợ kinh phí của NAFOSTED thông qua đề tài NCCB mã số 106.05 – 2017.330. Nature là tạp chí, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1869 và được xếp hạng là tạp chí khoa học uy tín và có trích dẫn nhiều nhất. Những bài báo hoặc công trình đăng trong tạp chí này được cộng đồng các nhà khoa học đánh giá rất cao. Bài báo đăng trên tạp chí Nature là tiêu chí để đánh giá chất lượng khoa học của công trình. Chỉ có những công trình có chất lượng khoa học vượt trội mới được tạp chí chấp nhận xuất bản. Tác giả của các công trình này là những nhà khoa học xuất sắc, có đầu tư nghiên cứu bài bản, có hệ thống và đạt trình độ chuyên sâu của lĩnh vực khoa học đang nghiên cứu. Dù ở lĩnh vực chuyên môn nào, có bài báo hoặc công trình đăng trên tạp chí Nature là niềm tự hào và ước mơ của mỗi nhà khoa học. Vị trí thu mẫu tuyến trùng trên toàn thế giới Tuyến trùng là nhóm sinh vật đa dạng và phong phú bậc nhất trên thế giới. Chúng sinh sống ở hầu như tất cả các môi trường từ môi trường nước mặn, nước ngọt, sống tự do hay là sống ký sinh… Những nghiên cứu về tuyến trùng thực vật và tuyến trùng biển đã được thực hiện từ rất lâu trên thế giới. Nhưng những nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất còn rất hạn chế. Chúng là một trong những nhóm sinh vật đa dạng và đóng vai trò quan trọng trong tất các các mắt xích của mạng lưới thức ăn, góp phần luân chuyển carbon, chất dinh dưỡng, khoáng hóa trong đất. Tuyến trùng ăn vi khuẩn, nấm, thực vật và các sinh vật đất khác và thải ra các vật chất khoáng hóa, luân chuyển carbon trong đất. Hoạt động này giúp đất được cải thiện và tạo ra các vật liệu khoáng, carbon giúp cho cây phát triển. Tuyến trùng thường hoạt động mạnh hơn khi nhiệt độ tăng lên, do đó quần thể tuyến trùng ở Bắc cực và cận Bắc cực được sử dụng như một tiêu chí đánh giá và thể hiện mức độ nhạy cảm khi nhiệt độ của vùng nóng lên. Số lượng tuyến trùng trong 100 gram đất khô trên toàn thế giới Tiến sĩ Nguyễn Thị Ánh Dương đã tham gia triển khai nghiên cứu và thu thập số liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu về tuyến trùng ở Việt Nam trong hơn 10 năm, Tiến sĩ đã cộng tác với 70 nhà khoa học hàng đầu về lĩnh vực tuyến trùng học ở 57 phòng thí nghiệm trên toàn thế giới cùng nghiên cứu và xuất bản công trình này. Trong nghiên cứu này, 6.759 mẫu đất trên khắp thế giới đại diện cho 73 vùng tiểu khí hậu đã được thu thập và phân tích để xác định tính đa dạng và chức năng của nhóm sinh vật nhỏ bé. Nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng tuyến trùng sống tự do trong đất lớn hơn rất nhiều so với những nghiên cứu trước đây. Chúng có số lượng khoảng 4.4 ± 0.64 × 1020 và tổng sinh khối khoảng 300 triệu tấn – xấp xỉ 80% trọng lượng kết hợp của 7.7 tỷ người tương đương dân số trên trái đất. Nghiên cứu cũng cung cấp những bằng chứng cho thấy phần lớn tuyến trùng tập trung tại những nơi có vĩ độ cao: 38,7% tồn tại trong các khu rừng phương bắc và lãnh nguyên trên khắp Bắc Mỹ, Scandinavia và Nga, 24,5% ở vùng ôn đới, và chỉ 20,5% ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đây có thể coi là bộ dữ liệu khoa học đồ sộ nhất từ trước tới nay. Vẻ đẹp của tuyến trùng dưới kính hiển vi điện tử quét (SEM): A, Tricironema tamdaoensis; B: Acrobeloides topali, C: Acrobeloides topali Hình ảnh thu mẫu đất tuyến trùng ngoài thực địa (Hữu Lũng, Lạng Sơn) năm 2013 Kết quả nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cở sở khoa học để phát triển thế giới bền vững. Đặc biệt những ứng dụng của nhóm sinh vật này được đưa ra để dự đoán biến đổi khí hậu toàn cầu. Từ đó chúng ta có thể thấy chuyên ngành tuyến trùng hẹp nhưng ngành này lại đóng vai trò rất quan trọng để mở ra những hướng nghiên cứu và ứng dụng mới. Công trình nghiên cứu xuất sắc này của TS. Nguyễn Thị Ánh Dương và các cộng sự một lần nữa khẳng định: Mọi lĩnh vực nghiên cứu dù hẹp hay rộng, khi được đầu tư nghiên cứu bài bản, cùng sự lao động khoa học nghiêm túc, có hệ thống, có điều kiện nghiên cứu đầy đủ và có sự kết hợp của tập thể đều có thể đạt được đến trình độ cao về khoa học. Nhà khoa học Việt Nam có niềm đam mê, hoài bão, được đào tạo cơ bản, tiên tiến đều có khả năng, trình độ và đạt được kết quả nghiên cứu tiên tiến sánh ngang với các nhà khoa học của các nước phát triển trên thế giới. Tin: VAST

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Kết quả nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm được công bố trên Tạp chí Nature

Tạp chí khoa học hàng đầu thế giới Nature vừa công bố kết quả nghiên cứu xuất sắc của các nhà khoa học ĐHQGHN (hợp tác với Trường ĐH Columbia – Hoa Kì) trong lĩnh vực nghiên cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm. Ô nhiễm asen trong nước ngầm tầng nước nông (tầng Holocene)là một trong những mối đe dọa sức khỏe lớn nhất ở các nước đang phát triển. Tại đồng bằng sông Hồng nước ngầm đang là nguồn nước chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt của một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới. Đứng trước mối nguy cơ đó, từ năm 1998 đến nay, Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững (CETASD), Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN đã cùng hợp tác với các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu uy tín trên thế giới để triển khai hướng nghiên cứu về ô nhiễm asen trong nước ngầm tại Việt Nam với mục đích phát hiện và khoanh vùng những khu vực ô nhiễm cũng như tìm hiểu cơ chế phát sinh ô nhiễm asen để có biện pháp giảm thiểu. Thực tế, các kết quả nghiên cứu trước đây của CETASD đã được sử dụng làm cơ sở khoa học góp phần tư vấn cho Chính phủ xây dựng “Chiến lược hành động quốc gia về nghiên cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm và giải pháp khắc phục”, đồng thời đã và sẽ đóng góp vào cơ sở dữ liệu khoa học giúp cho các nhà quản lý hoạch định chính sách về quản lý khai thác nước ngầm và định hướng về việc khai thác nước mặt dần thay thế cho nước ngầm tại Hà Nội bắt đầu từ nhiều năm nay. Bản đồ các địa điểm nghiên cứu Mới đây, các kết quả nghiên cứu “Cơ chế làm chậm sự di chuyển của asen qua tầng chứa nước sâu Pleistocene” (Retardation of arsenic transport through a Pleistocene aquifer) của nhóm nghiên cứu Địa hóa môi trường của Trung tâm CETASD hợp tác với các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Columbia đã được xuất bản trên Tạp chí Nature (Vol. 501, p. 204-207, 12 Sep., 2013). Một số nhà khoa học của nhóm nghiên cứu (từ trái sang: GS.TS Phạm Hùng Việt – giám đốc CETASD, ThS. Vi Mai lan, GS.TS. Benjamin Bostick – ĐH Columbia) tại phòng thí nghiệm của CETASD (Ảnh: Bùi Tuấn) Nghiên cứu này được thực hiện tại bãi giếng khoan tại xã Vạn Phúc nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km về phía Đông Nam, nơi có hiện tượng độc đáo là có vùng chuyển giữa hai môi trường có nồng độ asen hòa tan thấp và cao rất sắc nét, và đặc biệt vùng ranh giới chuyển tiếp này đang có nguy cơ di chuyển về phía tây tương ứng với sự tăng cường mức độ khai thác (bơm hút) nước ngầm ở Hà Nội. Các phát hiện của công trình nghiên cứu này được tóm tắt như sau: “Tầng chứa nước nông Holocene là nguồn gây ô nhiễm asen tại khu vực nghiên cứu tại xã Vạn Phúc, ngược lại, tầng cát Pleistocene được tích tụ từ hơn 12.000 năm trước chứa nước ngầm với nồng độ asen rất thấp. Các tầng chứa nước sâu Pleistocene ngày càng được khai thác nhiều để cung cấp nguồn nước an toàn, vì thế cần phải nghiên cứu rõ hàm lượng ô nhiễm asen thấp đó đã được duy trì dưới những điều kiện nào. Trong nghiên cứu này, giai đoạn đầu của sự ô nhiễm tầng chứa nước Pleistocene đã được tái tạo lại và đã chứng minh được rằng những thay đổi về các điều kiện dòng chảy nước ngầm và trạng thái oxy hóa khử của tầng cát chứa nước do sự bơm hút nước ngầm đã gây ra sự xâm nhập ô nhiễm asen dọc từ tầng Holocene vào tầng Pleistocene hơn 120 m. Kết quả nghiên cứu cho thấy chính asen đã bị hấp phụ bởi các hạt cát trong tầng chứa nước. Do đó, phạm vi lây lan ô nhiễm asen giảm đi hơn 20 lần so với sự di chuyển dọc của nước ngầm trong cùng một giai đoạn nhất định. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng sự ô nhiễm asen trong tầng chứa nước Pleistocene ở khu vực Nam và Đông nam Á dưới tác động của việc khai thác nước ngầm có thể được làm chậm do sự lưu giữ asen trong quá trình di chuyển”. Theo GS.TS Nguyễn Hữu Đức – Phó Giám đốc ĐHQGHN: Tạp chí Nature là một tạp chí có uy tín hàng đầu thế giới, có chỉ số ảnh hưởng IF = 38. Mỗi năm, Tạp chí nhận được hơn 10.000 bài gửi đến, nhưng chỉ có 8% trong số đó lọt qua được vòng bình duyệt và được công bố. Các công trình khoa học công bố trên Tạp chí này đạt trình độ nghiên cứu cơ bản xuất sắc, có tính đột phá, có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với cộng đồng khoa học và mà còn cả xã hội. Trên thế giới, số lượng bài báo xuất bản trên tạp chí Nature không chỉ là chỉ số đánh giá phát minh và tài năng cá nhân các nhà khoa học mà còn đánh giá trình độ khoa học của các cơ sở đạo tạo và nghiên cứu, thậm chí cả trình độ khoa học của một quốc gia. Trong 10 năm qua, các cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam chúng ta mới chỉ có khoảng 5 công trình (thực hiện tại Việt Nam) được đăng trên Tạp chí Nature. Để có các nghiên cứu hoàn chỉnh, đỉnh cao, hợp tác quốc tế giữa các phòng thí nghiệm hiện đại và các nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới ngày càng trở nên phổ biến. Đối với công trình nghiên

Tin tức, Truyền thông khoa học

Hội thảo “Nghiên cứu thiết kế chi tiết và công nghệ chế tạo, lắp ráp và hạ thủy giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam”

Trong các ngày từ 22 đến 24/6/2012, Công ty Cổ phần Chế tạo giàn khoan dầu khí (PV Shipyard) thuộc Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã tiến hành tổ chức Hội thảo về “Dự án KH&CN “Nghiên cứu thiết kế chi tiết và công nghệ chế tạo, lắp ráp và hạ thủy giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều  kiện Việt Nam”. Đại diện một số đơn vị thuộc Bộ KH&CN, các đơn vị đối tác, các công ty, Tổng công ty trong ngành cùng các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành thuộc các viện, trường đại học có quan tâm đã tham dự hội thảo. Qua trao đổi, chia sẻ của các chuyên gia, các đại biểu đã có được một cái nhìn cụ thể, đa chiều đối với lĩnh vực thiết kế và chế tạo giàn khoan dầu khí. Hội thảo cũng đánh giá cao sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật trẻ của công ty PV Shipyard trong việc nghiên cứu, tiếp cận triển khai thực hiện các đề tài để từng bước làm chủ thiết kế chi tiết, công nghệ chế tạo, lắp ráp và hạ thủy giàn khoan tự nâng 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam, hứa hẹn mở ra triển vọng phát triển của ngành nghề mới đặc thù và đầy hứa hẹn này trong tương lai. Dự án Chế tạo giàn khoan tự nâng là công trình cơ khí trọng điểm quốc gia lần đầu tiên được thiết kế chi tiết và lắp dựng tại Việt Nam, được Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia tài trợ thực hiện các đề tài thuộc dự án và giao cho Công ty cổ phần Chế tạo giàn khoan Dầu khí (PV Shipyard) – Tập đoàn dầu khí Việt Nam chủ trì. Dự án này được thực hiện song song cùng với dự án đầu tư sản xuất đóng mới giàn khoan dầu khí tự nâng 90m nước đầu tiên tại Việt Nam (nay được đặt tên là Giàn Tam Đảo 03) do PV Shipyard là đơn vị trực tiếp tham gia thiết kế chi tiết, chế tạo, mang tính thực tiễn và ứng dụng cao. Hội thảo không chỉ góp phần giúp các chủ nhiệm đề tài – những cán bộ kỹ thuật trẻ của Công ty PV Shipyard, hoàn thiện các kết quả đề tài, mà còn nâng cao nhận thức một cách đầy đủ về ý nghĩa quan trọng trong công tác triển khai thực hiện các dự án KH&CN, từng bước tạo ra một đội ngũ cán bộ trẻ có đủ năng lực, kinh nghiệm, góp phần phát triển doanh nghiệp trong tương lai.            (Ảnh: Hội thảo thu hút nhiều chuyên gia và những người quan tâm tham gia)

Lên đầu trang