Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Tên tác giả: admin

Thông báo, Tin sự kiện, Tin tức

Đề tài NAFOSTED – SNSF do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ thực hiện từ năm 2025

Hội đồng Quản lý Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) đã phê duyệt Danh mục đề tài NAFOSTED – SNSF do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ thực hiện từ năm 2025 tại Quyết định số 91/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 19/12/2024. Danh sách các đề tài được phê duyệt cụ thể như sau: TT Mã số đề tài Tên đề tài Chủ  nhiệm đề tài Tổ chức chủ trì Thời gian thực hiện (tháng) 1 IZVSZ1_229553 Agroeconfirm : A Farm-to-Fork Approach to Sustainable Vegetable Production and Healthy Diets TS. Đồng Đạo Dũng Học viện Nông nghiệp Việt Nam 48 2 IZVSZ2_229536 Sustainable development of biodegradable particleboards by using rice husk and rice straw agricultural waste and a mineral-based binder TS. Nguyễn Bảo Ngọc Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng – Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 36 3 IZVSZ2_229539 Explainable interpretation of chest X-rays by leveraging vision language foundation models TS. Phạm Huy Hiệu Trường Đại học VinUni 48 4 IZVSZ2_229549 Impact of agricultural practices on groundwater quality in the Mekong Delta, Vietnam TS. Phan Thanh Lâm Trường Đại học Bách khoa – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 48 5 IZVSZ2_229551 Nature-based Solutions for the mitigation of soil and water related natural hazards in the context of Climate Change and Sustainable Development in Vietnam PGS.TS. Bùi Xuân Dũng Trường Đại học Lâm nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 48 6 IZVSZ2_229554 Oka theory, CR-geometry, D-bar-problem and applications TSKH. Dương Ngọc Sơn Trường Đại học Phenikaa 48 7 IZVSZ2_ 229568 Data Driven High-Dimensional Approximation – Mathematical Analysis and Computing GS.TSKH. Đinh Dũng Viện Công nghệ Thông tin – Đại học Quốc gia Hà Nội 48 8 IZVSZ3_ 229548 Elucidating the molecular mechanisms of polluted airborne particulate accumulation in leafy vegetable crops PGS.TS. Nguyễn Việt Long Học viện Nông nghiệp Việt Nam 48 9 IZVSZ3_229556 Investigate corticotropin-releasing hormone system as novel therapeutics for neurodegenerative diseases (Cor4ND) GS.TS. Thái Khắc Minh Trường Đại học Khoa học Sức Khoẻ – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 48 10 IZVSZ3_229563 Functional Evaluation of Secretomes from Bone Marrow Cells for Damaged Cells: Exploring Their Potential for Ischemic Disease Treatment PGS.TS. Phạm Văn Phúc Viện Tế bào gốc -Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia TP.HCM 48 Cơ quan điều hành Quỹ đang thực hiện các thủ tục để Hội đồng Quản lý Quỹ phê duyệt kinh phí cho đề tài nêu trên. Sau khi danh mục kinh phí đề tài được phê duyệt, Cơ quan điều hành Quỹ sẽ thông báo tới tổ chức chủ trì và chủ nhiệm đề tài để hoàn thiện hồ sơ, ký hợp đồng và cấp kinh phí tài trợ đợt 1, dự kiến trong quý I năm 2025 (tùy thuộc kế hoạch cấp kinh phí của NSNN năm 2025 cho Quỹ). Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia trân trọng thông báo để các nhà khoa học, các tổ chức KH&CN được biết./. Trong kỳ thông báo tiếp nhận hồ sơ năm 2024, chương trình hợp tác song phương NAFOSTED – SNSF đã tiếp nhận được 40 hồ sơ do các nhà khoa học Việt Nam và Thụy Sĩ phối hợp chuẩn bị và đề xuất. Nội dung của các đề xuất trải rộng trên nhiều ngành khoa học khác nhau gồm Toán học; Khoa học Thông tin và Máy tính; Vật lý; Hóa học; Khoa học trái đất và Khoa học Biển; Sinh học nông nghiệp; Cơ học; Y Sinh Dược học; Xã hội học; Tâm lý học; Giáo dục học; Kinh tế học. Trong thời gian từ tháng 4/2024 – 11/2024, các hồ sơ đăng ký chương trình song phương NAFOSTED – SNSF đã được NAFOSTED và SNSF rà soát điều kiện, gửi đến các chuyên gia phản biện nhận xét và thực hiện đánh giá xét chọn chung. Các đề tài được tài trợ theo quy định phải được cả hai cơ quan NAFOSTED và SNSF thống nhất phê duyệt tài trợ. Tin: NAFOSTED

Thông báo, Tin sự kiện, Tin tức

Triển khai thành lập Hội đồng khoa học nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật nhiệm kỳ 2024-2026

Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) đang triển khai thành lập Hội đồng khoa học nghiên cứu cơ bản (HĐKH) trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật nhiệm kỳ 2024-2026. Để có thể lựa chọn được các thành viên HĐKH chất lượng, đại diện cho các nhà khoa học nghiên cứu cơ bản tại Việt Nam tham gia vào các hoạt động đánh giá tài trợ, hỗ trợ của Quỹ, kính mời các nhà khoa học quan tâm ứng cử hoặc đề cử các nhà khoa học đáp ứng đủ điều kiện tham gia HĐKH nhiệm kỳ mới. Nhiệm vụ của Hội đồng khoa học: HĐKH được thành lập để tư vấn cho Quỹ về các vấn đề sau đây: – Hướng nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực KHTN&KT do Quỹ tài trợ; – Đánh giá xét chọn, đánh giá kết quả thực hiện các đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ tài trợ; – Các vấn đề khác liên quan đến hoạt động của Quỹ. Tiêu chí lựa chọn thành viên HĐKH: – Có trình độ kinh nghiệm và năng lực chuyên môn phù hợp (có bằng Tiến sỹ, có kết quả nghiên cứu chuyên môn phù hợp được công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín do Quỹ ban hành trong 05 năm gần nhất); – Được các nhà khoa học cùng ngành tín nhiệm giới thiệu; – Cam kết tham gia và thực hiện các quy định của Quỹ.  Kế hoạch thực hiện TT Nội dung Thông tin chi tiết Thời gian dự kiến 1 Giới thiệu nhà khoa học Cộng đồng khoa học đề cử/giới thiệu các nhà khoa học đủ điều kiện tham gia Hội đồng khoa học các ngành trong lĩnh vực KHTN&KT. Danh sách giới thiệu mặc định của Quỹ bao gồm các thành viên HĐKH nhiệm kỳ 2017-2019; 2019-2021 và 2022-2024 và các chủ nhiệm đề tài NCCB trong KHTN&KT của Quỹ từ năm 2019 đến năm 2023. Từ ngày 28/11-8/12/2024 2 Xác nhận tham gia và cập nhật lý lịch khoa học Các nhà khoa học được giới thiệu xác nhận tham gia danh sách ứng viên các HĐKH NCCB trong KHTN&KT và cập nhật lý lịch khoa học trên hệ thống quản lý trực tuyến của Quỹ. Từ ngày 27/11-8/12/2024 3 Bình chọn HĐKH mới Các nhà khoa học (bao gồm các thành viên HĐKH NCCB nhiệm kỳ 2017-2019, 2019-2021, 2022-2024; các nhà khoa học đề xuất hồ sơ đề tài NCCB của Quỹ hợp lệ từ năm 2019 – 2023 và các ứng viên được giới thiệu hợp lệ) vào hệ thống quản lý trực tuyến đề xuất HĐKH NCCB trong KHTN&KT nhiệm kỳ 2024-2026 từ danh sách ứng viên. Từ ngày 8-18/12/2024 4 Tổng hợp kết quả và đề xuất HĐKH ngành Tổng hợp kết quả giới thiệu từ cộng đồng khoa học và đề xuất HĐKH NCCB nhiệm kỳ 2024-2026 Từ ngày 18-25/12/2024 5 Trình HĐQL Quỹ thành lập HĐKH NCCB HĐQL Quỹ xem xét, quyết định thành lập HĐKH NCCB nhiệm kỳ 2024 – 2026. Từ ngày 25-31/12/2024   Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia trân trọng kính mời các nhà khoa học tham gia tích cực vào việc giới thiệu và bình chọn thành viên các HĐKH thông qua tài khoản trên hệ thống Quản lý đề tài NAFOSTED (https://e-services.nafosted.gov.vn/). Sự tham gia của các nhà khoa học thể hiện trách nhiệm và góp phần quan trọng trong nâng cao chất lượng tài trợ và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật tại Việt Nam. Tin: NAFOSTED

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Ô nhiễm vi nhựa trong các loài sò vẹm có ở mức đáng lo ngại?

Với sự tài trợ của NAFOSTED và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, nhóm các nhà khoa học ở ĐH Tài nguyên và Môi trường, Bệnh viện Phổi Trung ương, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam… và các đồng nghiệp Pháp thực hiện nghiên cứu ở vùng duyên hải miền Bắc, trên các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Vi nhựa có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua đường ăn uống. Nguồn: Shutterstock Hiện đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về sự xuất hiện của vi nhựa ở nhiều hệ sinh thái khác nhau, ví dụ như trầm tích bờ biển Đà Nẵng, Tiền Giang, Vũng Tàu sông Sài Gòn và kênh, lõi trầm tích sông Hồng và Tiên Yên… Lo ngại về vi nhựa trên nhuyễn thể hai mảnh vỏ ở Việt Nam, đã có nghiên cứu đánh giá ở Thanh Hóa ghi nhận các nồng độ vi nhựa ở vẹm xanh châu Á (Perna viridis), nghêu Bến (Meretrix lyrata), ngao hai cồi (Tapes dorsatus)… Tuy nhiên vẫn chưa rõ ảnh hưởng của mùa (mùa khô và mùa mưa) và vùng địa lý với sự phân bố của vi nhựa. Nhóm nghiên cứu đặt giả thuyết có thể là cơ chế mùa và vùng địa lý sẽ đem lại những gợi ý về quản lý môi trường và bảo vệ sức khỏe con người. Họ đã thu thập sò huyết và vẹm xanh từ các bãi lầy triều thuộc cửa Ba Lạt, Vân Đồn, Cát Bà, nơi có liên quan trực tiếp đến những hoạt động nhân sinh rất đa dạng như nuôi trồng thủy sản, du lịch, vận tải… Mẫu được lấy trong mùa mưa (tháng 7/2020) và mùa khô (tháng 1/2021). Phân tích cho thấy, nồng độ vi nhựa ở sò huyết từ 1,25 đến 2,67 mảnh/con và từ 0,38 đến 1,48 mảnh/gam khô. Vi nhựa dạng sợi chiếm nhiều nhất trong tổng số vi nhựa với 93 % trong khi dạng mảnh chỉ 7%. Phần lớn dạng sợi có nhiều màu sắc như hồng 26 %, tía 18 %, xanh lam 17%, xám 11% và đen 10%. Dẫu không có xu hướng khác nhau về hình dạng, màu sắc vi nhựa ở ba địa điểm lấy mẫu cũng như theo mùa nhưng có một số thông tin khác như vi nhựa nhỏ nhất là 50 µm, vi nhựa lớn nhất là 2.000 µm và các vi nhựa nhỏ dưới 1 mm chiếm tới hơn 90 % vi nhựa ở mẫu sò huyết. Ở vẹm xanh, nồng độ vi nhựa từ 2,13 đến 6,75 trên một con và từ 0,33 đến 1,36 vi nhựa/gam khô. Tương tự sò huyết, không có sự khác biệt về nồng độ trên các con vẹm xanh, vi nhựa dạng sợi lấn át, chiếm 93 %, còn lại là dạng mảnh. Họ quan sát được 10 dạng màu sắc phổ biến và một nửa vi nhựa ở vẹm xanh từ 100 đến 300 µm (46 %), còn lại là 300 đến 1000 µm (43 %). Phân tích thành phần hóa học cho thấy, chủ yếu là các dạng polymer với 53 % polyethylene (PE) – loại nhựa phổ biến trong bao bì đóng gói; 35 % polypropylene (PP) – loại nhựa nhiệt dẻo thường làm đồ gia dụng, và 12 % polyvinyl chloride (PVC) – loại nhựa nhiệt dẻo trong sản xuất công nghiệp. Sự lấn át của vi nhựa dạng sợi của cả vẹm xanh lẫn sò huyết cho thấy xu hướng ô nhiễm của môi trường nước và trầm tích, từng được khẳng định trong nghiên cứu lấy mẫu ở bốn địa điểm khác nhau trên vịnh Bắc Bộ. Sự khác biệt về các dạng polymer ở hai loài có thể liên quan đến nơi sống của từng loại. Các nhà khoa học cho rằng, nguồn ô nhiễm có thể chủ yếu từ hoạt động du lịch, sinh hoạt và một phần đáng kể của nuôi trồng, đánh bắt thủy sản. Vậy lượng vi nhựa này có ảnh hưởng đến sức khỏe con người? Ước tính, việc ăn các loài sò vẹm chứng tỏ con người có thể phơi nhiễm 900 đến 11.500 vi nhựa/người/năm, không tính đến việc ăn các tạo vật của biển khác, như cá, muối… Tuy nhiên, mức độ phơi nhiễm vi nhựa qua uống nước chai và bia cao gấp 15 lần, còn hít thở, nguồn nhiễm lớn nhất cho người, gấp 3.000 lần so với uống. Nghiên cứu chỉ dấu con người đang phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao do phơi nhiễm vi nhựa qua ba đường chính: ăn uống, hít thở và uống nước. Do đó, họ cho rằng cần có những nghiên cứu tương lai để bổ sung thêm vào cơ sở dữ liệu về nhựa ở Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh vào việc quản lý tốt hơn trong việc sử dụng, tái chế và quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam để bảo vệ môi trường và sức khỏe. Trong quá trình này, có thể sử dụng các loài hai mảnh vỏ như một chỉ thị sinh học về vi nhựa. Bài báo được xuất bản trên Regional Studies in Marine Science, “Occurrence of microplastics in bivalves from the northern coast of Viet Nam”. Tin: Thanh Nhàn – Tạp chí Tia Sáng

Thông báo, Tin sự kiện, Tin tức

Thông báo về Chương trình tài trợ nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật năm 2024

Đề tài nghiên cứu cơ bản (NCCB) do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) tài trợ được quản lý theo quy định tại Thông tư số 37/2014/TT-BKHCN ngày 12 tháng 12 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (Thông tư 37). Quỹ thông báo kế hoạch triển khai Chương trình tài trợ đề tài NCCB trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật năm 2024 như sau: 1. Phạm vi tài trợ Năm 2024, để phù hợp với nguồn kinh phí hoạt động được NSNN cấp, Quỹ tiếp nhận và xem xét tài trợ hồ sơ đăng ký đề tài NCCB thuộc các ngành Toán học, Khoa học Thông tin và Máy tính, Vật lý, Hoá học, Khoa học Trái đất – Khoa học Biển; Sinh học Nông nghiệp, Cơ học – Kỹ thuật; Y sinh Dược học do nhóm nghiên cứu mạnh (theo quy định tại Thông tư 37) thực hiện, trong đó ưu tiên tài trợ đối với các đề tài do các nhà khoa học trẻ làm chủ nhiệm, các đề tài có đào tạo tiến sĩ (nghiên cứu sinh tham gia đề tài là đồng tác giả của ít nhất 01 bài báo quốc tế có uy tín là sản phẩm của đề tài). Kinh phí dự kiến: Từ 2.500 tr đồng – 3.500 tr đồng/đề tài (đối với các đề tài lý thuyết) và 4.000 tr đồng –5.000 tr đồng/đề tài (đối với các đề tài thực nghiệm).(tương ứng với nội dung trong thuyết minh và sản phẩm đăng ký, phù hợp với định mức công lao động khoa học quy định tại Thông tư số 03/2023/TT-BTC ngày 10 tháng 01 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08 tháng 05 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ). Lập dự toán kinh phí: Xem hướng dẫn chi tiết tại đây. 2. Thời gian tiếp nhận hồ sơ Từ 08h30 ngày 31/7/2024 đến 17h00 ngày 12/9/2024 Đối với các hồ sơ gửi theo đường bưu điện cần được gửi trước thời điểm kết thúc tiếp nhận hồ sơ (theo dấu bưu điện trên bì thư). 3. Phương thức nộp hồ sơ Xem chi tiết hướng dẫn phương thức nộp hồ sơ tại đây. Mẫu hồ sơ tải tại đây. Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ: Bộ phận một cửa Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia Phòng 405, Tầng 4, nhà 39 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội Quỹ khuyến khích các nhà khoa học và tổ chức chủ trì nộp hồ sơ theo cách 1 (gửi hồ sơ ký số) và ưu tiên hơn trong quá trình xét chọn tài trợ đối với các hồ sơ dạng này. 4. Một số mốc thời gian triển khai dự kiến Đánh giá xét chọn: tháng 9/2024 – tháng 11/2024 Rà soát, thẩm định kinh phí: tháng 11/2024 – tháng 12/2024 Thông báo kết quả tài trợ: tháng 12/2024 Ký hợp đồng tài trợ: Quý 1/2025 (Tùy theo thời điểm Quỹ được cấp kinh phí theo kế hoạch) 5. Một số lưu ý khác – Quỹ không tiếp nhận hồ sơ có i) Chủ nhiệm đề tài do Quỹ tài trợ giai đoạn trước đó, chưa nộp báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện đề tài tính đến thời điểm bắt đầu nộp hồ sơ (ngày 31/7/2024); ii) Tổ chức chủ trì không đáp ứng các quy định tại Điều 20 Thông tư 37; – Các tổ chức chủ trì và chủ nhiệm đề tài cần đáp ứng các quy định về liêm chính nghiên cứu do Quỹ ban hành. – Mỗi nhà khoa học không nộp quá 01 hồ sơ đăng ký làm chủ nhiệm đề tài trong cùng đợt tài trợ. – Nhóm nghiên cứu mạnh: ✓ Là tập thể các nhà khoa học xây dựng được hướng nghiên cứu chung, dài hạn; có mục tiêu, kế hoạch nghiên cứu cho từng giai đoạn cụ thể; nội dung nghiên cứu có tính đột phá và cần nhiều thành viên tham gia thực hiện. Các thành viên chủ chốt của nhóm có kết quả nghiên cứu nổi bật, cụ thể: • Chủ nhiệm đề tài có kết quả công bố trên các tạp chí ISI có uy tín phù hợp trong thời gian 05 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ, có khả năng tập hợp được nhiều nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao tham gia thực hiện đề tài, duy trì được hợp tác nghiên cứu khoa học thường xuyên với các nhóm nghiên cứu quốc tế cùng ngành, liên ngành; • Có ít nhất 02 thành viên nghiên cứu chủ chốt của đề tài đáp ứng yêu cầu: Có chuyên môn phù hợp với nội dung nghiên cứu đề tài; có học vị tiến sỹ hoặc học hàm phó giáo sư, giáo sư và có kết quả nghiên cứu chuyên ngành phù hợp được công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín trong thời gian 05 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ; ✓ Tổ chức chủ trì đề tài có đủ điều kiện về cơ sở vật chất – kỹ thuật, năng lực nghiên cứu và cam kết hỗ trợ trong thời gian thực hiện nghiên cứu. ✓ Kết quả nghiên cứu phải có ít nhất 02 bài báo công bố trên tạp chí ISI có uy tín và 01 bài báo công bố trên tạp chí quốc gia có uy tín. 6. Các văn bản quản lý liên quan. Xem tại đây Tin: NAFOSTED

Thông báo, Tin sự kiện

Thông báo tiếp nhận hồ sơ đăng ký đề tài thuộc Chương trình hợp tác tài trợ NAFOSTED – UKRI (Vương quốc Anh) 2024

Triển khai theo Biên bản thỏa thuận hợp tác ký kết năm 2024, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) và Tổ chức Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo Vương quốc Anh (UKRI) đại diện bởi Hội đồng nghiên cứu Y khoa (Medical Research Council-MRC) tổ chức tiếp nhận và hợp tác tài trợ các hồ sơ đăng ký đề tài nghiên cứu chung trong khuôn khổ Chương trình Cơ hội tài trợ khu vực Đông Nam Á về các bệnh truyền nhiễm và khả năng kháng kháng sinh (AMR), dự kiến tài trợ thực hiện từ năm 2025. 1. Thông tin về chương trình tài trợ – Lĩnh vực nghiên cứu của đề tài: bệnh truyền nhiễm và kháng kháng sinh (AMR). – Thời gian thực hiện đề tài: 03 năm – Tiêu chí đối với nhóm nghiên cứu đề tài: Mỗi hồ sơ đăng ký phải có thành viên nghiên cứu chủ chốt từ cả Anh và Việt Nam. Nhà khoa học phía Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện đối với Chủ nhiệm đề tài, thành viên nghiên cứu và cơ quan chủ trì theo quy định tại Thông tư 37/2014/TT/BKHCN ngày 12/12/2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ về Quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ. Nhà khoa học phía Vương quốc Anh phải đáp ứng các điều kiện theo các quy định của UKRI. – Cách thức nộp hồ sơ: Hồ sơ đề tài cần được Chủ nhiệm đề tài phía Việt Nam và phía Vương quốc Anh phối hợp chuẩn bị và do Chủ nhiệm đề tài phía Vương quốc Anh đại diện nộp qua hệ thống tiếp nhận hồ sơ trực tuyến “The Funding Service – TFS” (Thông báo tài trợ và hướng dẫn nộp hồ sơ phía Anh xem tại đây); đồng thời Chủ nhiệm đề tài phía Việt Nam nộp 01 bộ bản sao hồ sơ đề tài (được in ra từ hệ thống TFS) tới hệ thống tiếp nhận hồ sơ trực tuyến OMS của Quỹ (Hướng dẫn sử dụng hệ thống OMS, nộp hồ sơ xin tham khảo tại đây). Ngoài ra, theo quy định các thành viên tham gia đề tài cần cập nhật Lý lịch khoa học của chủ nhiệm đề tài và các thành viên nhóm nghiên cứu phía Việt Nam (Khai trực tiếp trên hệ thống OMS). – Dự toán kinh phí đề tài dành cho nhóm nghiên cứu phía Việt Nam: hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 03/2023/TT-BTC của Bộ Tài chính, Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08/05/2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ và các văn bản pháp lý liên quan. – Kinh phí tối đa NAFOSTED tài trợ: 2,5 tỷ đồng/đề tài 2. Thời hạn tiếp nhận hồ sơ: đến 16h00 giờ Vương Quốc Anh – GMT+1 (22:00 giờ Việt Nam) ngày 30/5/2024 3. Văn bản liên quan sử dụng cho nhà khoa học Việt Nam Biên bản thỏa thuận hợp tác giữa NAFOSTED và UKRI năm 2024; Thông tư số 12/2018/TT-BKHCN ngày 31/8/2018 của Bộ Khoa học và Công nghệ Quy định về xây dựng, ký kết và quản lý các chương trình hợp tác quốc tế của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia trong tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, hỗ trợ hoạt động nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia; Thông tư số 03/2023/TT-BTC ngày 10/01/2023 của Bộ Tài chính Quy định lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08/05/2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư số 37/2014/TT-BKHCN ngày 12/12/2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc Quy định quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia tài trợ; Quyết định số 251/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 11/12/2019 của Hội đồng quản lý Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia về việc ban hành Danh mục tạp chí quốc tế và quốc gia có uy tín trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; Quyết định số 95/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 30/12/2021 của Hội đồng quản lý Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia về việc ban hành Danh mục tạp chí có uy tín áp dụng đối với các đề tài nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật do Quỹ tài trợ; Thông tư liên tịch 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 22/4/2015 của Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính Quỵ định khoán chỉ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư 102/2012/TT-BTC ngày 21/6/2012 của Bộ Tài chính Quy định chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác ngắn hạn ở nước ngoài do ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí; Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính về quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước hỗ trợ; Thông tư số 71/2018/TT-BTC ngày 10/08/2018 của Bộ Tài chính Quy định chế độ tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chế độ chi tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chế độ tiếp khách trong nước; Thông tin chi tiết xin liên hệ: Chị

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Nhà khoa học nữ Việt Nam công bố công trình trên tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới

TS. Nguyễn Thị Ánh Dương, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Việt Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và các nhà khoa học Quốc tế vừa công bố bài báo trên tạp chí Nature – tạp chí khoa học uy tín nhất trên thế giới (7/2019). Công trình ghi nhận sự tài trợ kinh phí của NAFOSTED thông qua đề tài NCCB mã số 106.05 – 2017.330. Nature là tạp chí, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1869 và được xếp hạng là tạp chí khoa học uy tín và có trích dẫn nhiều nhất. Những bài báo hoặc công trình đăng trong tạp chí này được cộng đồng các nhà khoa học đánh giá rất cao. Bài báo đăng trên tạp chí Nature là tiêu chí để đánh giá chất lượng khoa học của công trình. Chỉ có những công trình có chất lượng khoa học vượt trội mới được tạp chí chấp nhận xuất bản. Tác giả của các công trình này là những nhà khoa học xuất sắc, có đầu tư nghiên cứu bài bản, có hệ thống và đạt trình độ chuyên sâu của lĩnh vực khoa học đang nghiên cứu. Dù ở lĩnh vực chuyên môn nào, có bài báo hoặc công trình đăng trên tạp chí Nature là niềm tự hào và ước mơ của mỗi nhà khoa học. Vị trí thu mẫu tuyến trùng trên toàn thế giới Tuyến trùng là nhóm sinh vật đa dạng và phong phú bậc nhất trên thế giới. Chúng sinh sống ở hầu như tất cả các môi trường từ môi trường nước mặn, nước ngọt, sống tự do hay là sống ký sinh… Những nghiên cứu về tuyến trùng thực vật và tuyến trùng biển đã được thực hiện từ rất lâu trên thế giới. Nhưng những nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất còn rất hạn chế. Chúng là một trong những nhóm sinh vật đa dạng và đóng vai trò quan trọng trong tất các các mắt xích của mạng lưới thức ăn, góp phần luân chuyển carbon, chất dinh dưỡng, khoáng hóa trong đất. Tuyến trùng ăn vi khuẩn, nấm, thực vật và các sinh vật đất khác và thải ra các vật chất khoáng hóa, luân chuyển carbon trong đất. Hoạt động này giúp đất được cải thiện và tạo ra các vật liệu khoáng, carbon giúp cho cây phát triển. Tuyến trùng thường hoạt động mạnh hơn khi nhiệt độ tăng lên, do đó quần thể tuyến trùng ở Bắc cực và cận Bắc cực được sử dụng như một tiêu chí đánh giá và thể hiện mức độ nhạy cảm khi nhiệt độ của vùng nóng lên. Số lượng tuyến trùng trong 100 gram đất khô trên toàn thế giới Tiến sĩ Nguyễn Thị Ánh Dương đã tham gia triển khai nghiên cứu và thu thập số liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu về tuyến trùng ở Việt Nam trong hơn 10 năm, Tiến sĩ đã cộng tác với 70 nhà khoa học hàng đầu về lĩnh vực tuyến trùng học ở 57 phòng thí nghiệm trên toàn thế giới cùng nghiên cứu và xuất bản công trình này. Trong nghiên cứu này, 6.759 mẫu đất trên khắp thế giới đại diện cho 73 vùng tiểu khí hậu đã được thu thập và phân tích để xác định tính đa dạng và chức năng của nhóm sinh vật nhỏ bé. Nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng tuyến trùng sống tự do trong đất lớn hơn rất nhiều so với những nghiên cứu trước đây. Chúng có số lượng khoảng 4.4 ± 0.64 × 1020 và tổng sinh khối khoảng 300 triệu tấn – xấp xỉ 80% trọng lượng kết hợp của 7.7 tỷ người tương đương dân số trên trái đất. Nghiên cứu cũng cung cấp những bằng chứng cho thấy phần lớn tuyến trùng tập trung tại những nơi có vĩ độ cao: 38,7% tồn tại trong các khu rừng phương bắc và lãnh nguyên trên khắp Bắc Mỹ, Scandinavia và Nga, 24,5% ở vùng ôn đới, và chỉ 20,5% ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đây có thể coi là bộ dữ liệu khoa học đồ sộ nhất từ trước tới nay. Vẻ đẹp của tuyến trùng dưới kính hiển vi điện tử quét (SEM): A, Tricironema tamdaoensis; B: Acrobeloides topali, C: Acrobeloides topali Hình ảnh thu mẫu đất tuyến trùng ngoài thực địa (Hữu Lũng, Lạng Sơn) năm 2013 Kết quả nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cở sở khoa học để phát triển thế giới bền vững. Đặc biệt những ứng dụng của nhóm sinh vật này được đưa ra để dự đoán biến đổi khí hậu toàn cầu. Từ đó chúng ta có thể thấy chuyên ngành tuyến trùng hẹp nhưng ngành này lại đóng vai trò rất quan trọng để mở ra những hướng nghiên cứu và ứng dụng mới. Công trình nghiên cứu xuất sắc này của TS. Nguyễn Thị Ánh Dương và các cộng sự một lần nữa khẳng định: Mọi lĩnh vực nghiên cứu dù hẹp hay rộng, khi được đầu tư nghiên cứu bài bản, cùng sự lao động khoa học nghiêm túc, có hệ thống, có điều kiện nghiên cứu đầy đủ và có sự kết hợp của tập thể đều có thể đạt được đến trình độ cao về khoa học. Nhà khoa học Việt Nam có niềm đam mê, hoài bão, được đào tạo cơ bản, tiên tiến đều có khả năng, trình độ và đạt được kết quả nghiên cứu tiên tiến sánh ngang với các nhà khoa học của các nước phát triển trên thế giới. Tin: VAST

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Kết quả nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm được công bố trên Tạp chí Nature

Tạp chí khoa học hàng đầu thế giới Nature vừa công bố kết quả nghiên cứu xuất sắc của các nhà khoa học ĐHQGHN (hợp tác với Trường ĐH Columbia – Hoa Kì) trong lĩnh vực nghiên cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm. Ô nhiễm asen trong nước ngầm tầng nước nông (tầng Holocene)là một trong những mối đe dọa sức khỏe lớn nhất ở các nước đang phát triển. Tại đồng bằng sông Hồng nước ngầm đang là nguồn nước chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt của một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới. Đứng trước mối nguy cơ đó, từ năm 1998 đến nay, Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững (CETASD), Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN đã cùng hợp tác với các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu uy tín trên thế giới để triển khai hướng nghiên cứu về ô nhiễm asen trong nước ngầm tại Việt Nam với mục đích phát hiện và khoanh vùng những khu vực ô nhiễm cũng như tìm hiểu cơ chế phát sinh ô nhiễm asen để có biện pháp giảm thiểu. Thực tế, các kết quả nghiên cứu trước đây của CETASD đã được sử dụng làm cơ sở khoa học góp phần tư vấn cho Chính phủ xây dựng “Chiến lược hành động quốc gia về nghiên cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm và giải pháp khắc phục”, đồng thời đã và sẽ đóng góp vào cơ sở dữ liệu khoa học giúp cho các nhà quản lý hoạch định chính sách về quản lý khai thác nước ngầm và định hướng về việc khai thác nước mặt dần thay thế cho nước ngầm tại Hà Nội bắt đầu từ nhiều năm nay. Bản đồ các địa điểm nghiên cứu Mới đây, các kết quả nghiên cứu “Cơ chế làm chậm sự di chuyển của asen qua tầng chứa nước sâu Pleistocene” (Retardation of arsenic transport through a Pleistocene aquifer) của nhóm nghiên cứu Địa hóa môi trường của Trung tâm CETASD hợp tác với các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Columbia đã được xuất bản trên Tạp chí Nature (Vol. 501, p. 204-207, 12 Sep., 2013). Một số nhà khoa học của nhóm nghiên cứu (từ trái sang: GS.TS Phạm Hùng Việt – giám đốc CETASD, ThS. Vi Mai lan, GS.TS. Benjamin Bostick – ĐH Columbia) tại phòng thí nghiệm của CETASD (Ảnh: Bùi Tuấn) Nghiên cứu này được thực hiện tại bãi giếng khoan tại xã Vạn Phúc nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km về phía Đông Nam, nơi có hiện tượng độc đáo là có vùng chuyển giữa hai môi trường có nồng độ asen hòa tan thấp và cao rất sắc nét, và đặc biệt vùng ranh giới chuyển tiếp này đang có nguy cơ di chuyển về phía tây tương ứng với sự tăng cường mức độ khai thác (bơm hút) nước ngầm ở Hà Nội. Các phát hiện của công trình nghiên cứu này được tóm tắt như sau: “Tầng chứa nước nông Holocene là nguồn gây ô nhiễm asen tại khu vực nghiên cứu tại xã Vạn Phúc, ngược lại, tầng cát Pleistocene được tích tụ từ hơn 12.000 năm trước chứa nước ngầm với nồng độ asen rất thấp. Các tầng chứa nước sâu Pleistocene ngày càng được khai thác nhiều để cung cấp nguồn nước an toàn, vì thế cần phải nghiên cứu rõ hàm lượng ô nhiễm asen thấp đó đã được duy trì dưới những điều kiện nào. Trong nghiên cứu này, giai đoạn đầu của sự ô nhiễm tầng chứa nước Pleistocene đã được tái tạo lại và đã chứng minh được rằng những thay đổi về các điều kiện dòng chảy nước ngầm và trạng thái oxy hóa khử của tầng cát chứa nước do sự bơm hút nước ngầm đã gây ra sự xâm nhập ô nhiễm asen dọc từ tầng Holocene vào tầng Pleistocene hơn 120 m. Kết quả nghiên cứu cho thấy chính asen đã bị hấp phụ bởi các hạt cát trong tầng chứa nước. Do đó, phạm vi lây lan ô nhiễm asen giảm đi hơn 20 lần so với sự di chuyển dọc của nước ngầm trong cùng một giai đoạn nhất định. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng sự ô nhiễm asen trong tầng chứa nước Pleistocene ở khu vực Nam và Đông nam Á dưới tác động của việc khai thác nước ngầm có thể được làm chậm do sự lưu giữ asen trong quá trình di chuyển”. Theo GS.TS Nguyễn Hữu Đức – Phó Giám đốc ĐHQGHN: Tạp chí Nature là một tạp chí có uy tín hàng đầu thế giới, có chỉ số ảnh hưởng IF = 38. Mỗi năm, Tạp chí nhận được hơn 10.000 bài gửi đến, nhưng chỉ có 8% trong số đó lọt qua được vòng bình duyệt và được công bố. Các công trình khoa học công bố trên Tạp chí này đạt trình độ nghiên cứu cơ bản xuất sắc, có tính đột phá, có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với cộng đồng khoa học và mà còn cả xã hội. Trên thế giới, số lượng bài báo xuất bản trên tạp chí Nature không chỉ là chỉ số đánh giá phát minh và tài năng cá nhân các nhà khoa học mà còn đánh giá trình độ khoa học của các cơ sở đạo tạo và nghiên cứu, thậm chí cả trình độ khoa học của một quốc gia. Trong 10 năm qua, các cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam chúng ta mới chỉ có khoảng 5 công trình (thực hiện tại Việt Nam) được đăng trên Tạp chí Nature. Để có các nghiên cứu hoàn chỉnh, đỉnh cao, hợp tác quốc tế giữa các phòng thí nghiệm hiện đại và các nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới ngày càng trở nên phổ biến. Đối với công trình nghiên

Tin tức, Truyền thông khoa học

Hội thảo “Nghiên cứu thiết kế chi tiết và công nghệ chế tạo, lắp ráp và hạ thủy giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam”

Trong các ngày từ 22 đến 24/6/2012, Công ty Cổ phần Chế tạo giàn khoan dầu khí (PV Shipyard) thuộc Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã tiến hành tổ chức Hội thảo về “Dự án KH&CN “Nghiên cứu thiết kế chi tiết và công nghệ chế tạo, lắp ráp và hạ thủy giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều  kiện Việt Nam”. Đại diện một số đơn vị thuộc Bộ KH&CN, các đơn vị đối tác, các công ty, Tổng công ty trong ngành cùng các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành thuộc các viện, trường đại học có quan tâm đã tham dự hội thảo. Qua trao đổi, chia sẻ của các chuyên gia, các đại biểu đã có được một cái nhìn cụ thể, đa chiều đối với lĩnh vực thiết kế và chế tạo giàn khoan dầu khí. Hội thảo cũng đánh giá cao sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật trẻ của công ty PV Shipyard trong việc nghiên cứu, tiếp cận triển khai thực hiện các đề tài để từng bước làm chủ thiết kế chi tiết, công nghệ chế tạo, lắp ráp và hạ thủy giàn khoan tự nâng 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam, hứa hẹn mở ra triển vọng phát triển của ngành nghề mới đặc thù và đầy hứa hẹn này trong tương lai. Dự án Chế tạo giàn khoan tự nâng là công trình cơ khí trọng điểm quốc gia lần đầu tiên được thiết kế chi tiết và lắp dựng tại Việt Nam, được Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia tài trợ thực hiện các đề tài thuộc dự án và giao cho Công ty cổ phần Chế tạo giàn khoan Dầu khí (PV Shipyard) – Tập đoàn dầu khí Việt Nam chủ trì. Dự án này được thực hiện song song cùng với dự án đầu tư sản xuất đóng mới giàn khoan dầu khí tự nâng 90m nước đầu tiên tại Việt Nam (nay được đặt tên là Giàn Tam Đảo 03) do PV Shipyard là đơn vị trực tiếp tham gia thiết kế chi tiết, chế tạo, mang tính thực tiễn và ứng dụng cao. Hội thảo không chỉ góp phần giúp các chủ nhiệm đề tài – những cán bộ kỹ thuật trẻ của Công ty PV Shipyard, hoàn thiện các kết quả đề tài, mà còn nâng cao nhận thức một cách đầy đủ về ý nghĩa quan trọng trong công tác triển khai thực hiện các dự án KH&CN, từng bước tạo ra một đội ngũ cán bộ trẻ có đủ năng lực, kinh nghiệm, góp phần phát triển doanh nghiệp trong tương lai.            (Ảnh: Hội thảo thu hút nhiều chuyên gia và những người quan tâm tham gia)

Kết quả tài trợ nổi bật, Tin sự kiện, Tin tức

NAFOSTED được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện khoa học và công nghệ nổi bật năm 2010

Ngày 29/12, tại Hà Nội, Câu lạc bộ Nhà báo khoa học và công nghệ – Hội nhà báo Việt Nam đã công bố kết quả cuộc bình chọn 10 sự kiện Khoa học Công nghệ nổi bật năm 2010 do các nhà báo trong lĩnh vực KH&CN trên cả nước bình chọn. Trong 10 sự kiện KH&CN được bình chọn năm nay, có 2 sự kiện thuộc lĩnh vực cơ chế chính sách; 2 sự kiện thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; 4 sự kiện thuộc lĩnh vực khoa học ứng dụng; 1 sự kiện thuộc lĩnh vực hội nhập quốc tế về KH&CN và 1 sự kiện thuộc lĩnh vực tôn vinh các nhà khoa học. 10 sự kiện được các nhà báo bình chọn lần lượt là: 1. NAFOSTED tạo bước đột phá trong đổi mới cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) bước đầu xây dựng được phương thức quản lý hoạt động khoa học theo chuẩn mực quốc tế. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học cơ bản của Việt Nam gần hơn với trình độ nghiên cứu ở các nước phát triển. Quỹ hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế đã góp phần tạo dựng được môi trường học thuật lành mạnh, các nhà khoa học có động lực nghiên cứu, có điều kiện thuận lợi theo đuổi nghiên cứu lâu dài. 2. Thành lập viện nghiên cứu trong doanh nghiệp Năm 2010 có nhiều doanh nghiệp thành lập viện nghiên cứu. Một hướng đi tích cực, bảo đảm cho sự phát triển vững chắc cho doanh nghiệp. Viện nghiên cứu Công nghệ FPT ra đời đã tạo ra môi trường gắn kết, thu hút và quy tụ nhiều “chất xám” không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới để nghiên cứu, phát triển các ngành công nghiệp, đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế nước nhà. Viện nghiên cứu Thủy sản Bình An cũng dự kiến tập trung vào các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong thủy sản như chọn giống, sản xuất giống, thức ăn nuôi thủy sản, thuốc phòng trị bệnh, vắc-xin, chế phẩm sinh học, công nghệ chế biến, gia tăng giá trị cho sản phẩm … đáp ứng yêu cầu thực tế của ngành. 3. Hoàn thành công trình nghiên cứu tổng thể về 1000 năm Thăng Long Hà Nội (KX-09) Chương trình: “Nghiên cứu, phát huy điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và giá trị lịch sử, văn hóa 1000 năm Thăng Long – Hà Nội phục vụ phát triển toàn diện Thủ đô” (KX – 09). Được biết, chương trình KX – 09 đã đưa ra được 54 giải pháp khoa học được đề xuất nhằm phát triển Thủ đô. Đây được đánh giá là bộ “Bách khoa thư” mới về Hà Nội. 4. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long được UNESCO công nhận là di sản của văn hoá thế giới Năm 2010 là năm ghi nhận của thế giới về nhiều giá trị di sản của Việt Nam trong đó có Hoàng thành Thăng Long. Các nhà khoa học đưa ra những lập luận xác đáng khẳng định giá trị cũng như chính sách hỗn hợp để bảo tồn và phát huy giá trị của Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long trước ý kiến của ICOMOS muốn hoãn việc xem xét công nhận khu di tích Hoàng thành Thăng Long trong năm 2010. 5. Lần đầu tiên tại Việt Nam thực hiện thành công ghép tim từ người chết não Trên cơ sở những thành công của ghép thận, ghép gan và ghép tim trên thực nghiệm, tháng 7-2009, Bộ KH và CN đã phê duyệt đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu triển khai ghép tim trên người lấy từ người cho chết não” thuộc chương trình “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ phục vụ bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cộng đồng” do GS. TS. Nguyễn Tiến Bình (Giám đốc Học viện Quân y) làm chủ nhiệm. Bệnh Viện 103, Học Viện Quân y, Bộ Quốc phòng đã thực hiện thành công ca ghép tim trên người đầu tiên tại Việt Nam cho bệnh nhân Bùi Văn Nam 48 tuổi, xã Trực Thái, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. 6. Công bố chíp xử lý 32–bit VN 1632 Chíp VN 1632 là một trong các sản phẩm của đề tài “ Nghiên cứu, phát triển phương pháp thiết kế và chế tạo chíp vi xử lý điều khiển RISC, mã số KC.01.08/06-10 do Bộ KH và CN đầu tư. Chip VN 1632 đáp ứng được yêu cầu của các hệ thống điều khiển phức tạp, đòi hỏi tốc độ cao như trong điện thoại di động, mã hóa/giải mã dữ liệu, thiết bị truyền thông, xử lý ảnh… 7. Cần cẩu siêu trường, siêu trọng 1200 tấn của Xí nghiệp cơ khí Quang Trung Xí nghiệp cơ khí Quang Trung Ninh Bình đã thiết kế, chế tạo và lắp đặt cầu trục gian máy, cầu trục trung gian và cầu trục chân đế cho công trình thủy điện Sơn La – công trình trọng điểm cấp Quốc gia, công trình thuỷ điện thế kỷ của Việt Nam. Sản phẩm “Cầu trục gian máy 1200T/200T/20T” được dùng để nâng, hạ Roto tua bin có trọng lượng 1.200 tấn. Đây là sản phẩm lớn nhất ở Việt Nam từ trước đến nay, do chính các kỹ sư Việt Nam nghiên cứu, thiết kế, chế tạo. 8. Phần mềm diệt vi-rút Việt Nam lọt vào top 10 phần mềm diệt vi-rút tốt nhất thế giới Kết quả được đưa ra từ kỳ kiểm định cuối năm của Phòng thí nghiệm vi-rút Bulletin (Anh)tổ chức kiểm định phần mềm diệt vi-rút có tiếng

Lên đầu trang