Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Kết quả tài trợ nổi bật

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Ô nhiễm vi nhựa trong các loài sò vẹm có ở mức đáng lo ngại?

Với sự tài trợ của NAFOSTED và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, nhóm các nhà khoa học ở ĐH Tài nguyên và Môi trường, Bệnh viện Phổi Trung ương, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam… và các đồng nghiệp Pháp thực hiện nghiên cứu ở vùng duyên hải miền Bắc, trên các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Vi nhựa có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua đường ăn uống. Nguồn: Shutterstock Hiện đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về sự xuất hiện của vi nhựa ở nhiều hệ sinh thái khác nhau, ví dụ như trầm tích bờ biển Đà Nẵng, Tiền Giang, Vũng Tàu sông Sài Gòn và kênh, lõi trầm tích sông Hồng và Tiên Yên… Lo ngại về vi nhựa trên nhuyễn thể hai mảnh vỏ ở Việt Nam, đã có nghiên cứu đánh giá ở Thanh Hóa ghi nhận các nồng độ vi nhựa ở vẹm xanh châu Á (Perna viridis), nghêu Bến (Meretrix lyrata), ngao hai cồi (Tapes dorsatus)… Tuy nhiên vẫn chưa rõ ảnh hưởng của mùa (mùa khô và mùa mưa) và vùng địa lý với sự phân bố của vi nhựa. Nhóm nghiên cứu đặt giả thuyết có thể là cơ chế mùa và vùng địa lý sẽ đem lại những gợi ý về quản lý môi trường và bảo vệ sức khỏe con người. Họ đã thu thập sò huyết và vẹm xanh từ các bãi lầy triều thuộc cửa Ba Lạt, Vân Đồn, Cát Bà, nơi có liên quan trực tiếp đến những hoạt động nhân sinh rất đa dạng như nuôi trồng thủy sản, du lịch, vận tải… Mẫu được lấy trong mùa mưa (tháng 7/2020) và mùa khô (tháng 1/2021). Phân tích cho thấy, nồng độ vi nhựa ở sò huyết từ 1,25 đến 2,67 mảnh/con và từ 0,38 đến 1,48 mảnh/gam khô. Vi nhựa dạng sợi chiếm nhiều nhất trong tổng số vi nhựa với 93 % trong khi dạng mảnh chỉ 7%. Phần lớn dạng sợi có nhiều màu sắc như hồng 26 %, tía 18 %, xanh lam 17%, xám 11% và đen 10%. Dẫu không có xu hướng khác nhau về hình dạng, màu sắc vi nhựa ở ba địa điểm lấy mẫu cũng như theo mùa nhưng có một số thông tin khác như vi nhựa nhỏ nhất là 50 µm, vi nhựa lớn nhất là 2.000 µm và các vi nhựa nhỏ dưới 1 mm chiếm tới hơn 90 % vi nhựa ở mẫu sò huyết. Ở vẹm xanh, nồng độ vi nhựa từ 2,13 đến 6,75 trên một con và từ 0,33 đến 1,36 vi nhựa/gam khô. Tương tự sò huyết, không có sự khác biệt về nồng độ trên các con vẹm xanh, vi nhựa dạng sợi lấn át, chiếm 93 %, còn lại là dạng mảnh. Họ quan sát được 10 dạng màu sắc phổ biến và một nửa vi nhựa ở vẹm xanh từ 100 đến 300 µm (46 %), còn lại là 300 đến 1000 µm (43 %). Phân tích thành phần hóa học cho thấy, chủ yếu là các dạng polymer với 53 % polyethylene (PE) – loại nhựa phổ biến trong bao bì đóng gói; 35 % polypropylene (PP) – loại nhựa nhiệt dẻo thường làm đồ gia dụng, và 12 % polyvinyl chloride (PVC) – loại nhựa nhiệt dẻo trong sản xuất công nghiệp. Sự lấn át của vi nhựa dạng sợi của cả vẹm xanh lẫn sò huyết cho thấy xu hướng ô nhiễm của môi trường nước và trầm tích, từng được khẳng định trong nghiên cứu lấy mẫu ở bốn địa điểm khác nhau trên vịnh Bắc Bộ. Sự khác biệt về các dạng polymer ở hai loài có thể liên quan đến nơi sống của từng loại. Các nhà khoa học cho rằng, nguồn ô nhiễm có thể chủ yếu từ hoạt động du lịch, sinh hoạt và một phần đáng kể của nuôi trồng, đánh bắt thủy sản. Vậy lượng vi nhựa này có ảnh hưởng đến sức khỏe con người? Ước tính, việc ăn các loài sò vẹm chứng tỏ con người có thể phơi nhiễm 900 đến 11.500 vi nhựa/người/năm, không tính đến việc ăn các tạo vật của biển khác, như cá, muối… Tuy nhiên, mức độ phơi nhiễm vi nhựa qua uống nước chai và bia cao gấp 15 lần, còn hít thở, nguồn nhiễm lớn nhất cho người, gấp 3.000 lần so với uống. Nghiên cứu chỉ dấu con người đang phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao do phơi nhiễm vi nhựa qua ba đường chính: ăn uống, hít thở và uống nước. Do đó, họ cho rằng cần có những nghiên cứu tương lai để bổ sung thêm vào cơ sở dữ liệu về nhựa ở Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh vào việc quản lý tốt hơn trong việc sử dụng, tái chế và quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam để bảo vệ môi trường và sức khỏe. Trong quá trình này, có thể sử dụng các loài hai mảnh vỏ như một chỉ thị sinh học về vi nhựa. Bài báo được xuất bản trên Regional Studies in Marine Science, “Occurrence of microplastics in bivalves from the northern coast of Viet Nam”. Tin: Thanh Nhàn – Tạp chí Tia Sáng

Kết quả tài trợ nổi bật, Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Giải thưởng Tạ Quang Bửu – khích lệ các nhà khoa học Việt Nam thực hiện các nghiên cứu cơ bản xuất sắc

Ngày 18/5/2014, lần đầu tiên, Bộ Khoa học & Công nghệ tổ chức Lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu nhằm vinh danh các nhà khoa học Việt Nam là tác giả của công trình nghiên cứu cơ bản(i) xuất sắc trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Qua 9 năm tổ chức và triển khai, nhìn lại chặng đường đã đi qua, có thể thấy Giải thưởng Tạ Quang Bửu đã bước đầu tạo được uy tín và niềm tin trong cộng đồng khoa học Việt Nam, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Trong quá trình triển khai, chất lượng Giải thưởng phù hợp thông lệ quốc tế là điểm quan trọng nhất, luôn được Lãnh đạo Bộ Khoa học & Công nghệ nhấn mạnh khi chỉ đạo triển khai tổ chức Giải thưởng. Chính việc yêu cầu cao về chất lượng giải thưởng theo thông lệ quốc tế đã dần tạo nên uy tín của Giải thưởng theo thời gian. Để giải quyết điều này, một số điểm quan trọng sau đây được thiết kế và nghiêm cẩn thực hiện: – Đặt ra tiêu chí rõ ràng, phù hợp thông lệ quốc tế để đánh giá, lựa chọn ứng viên. Đó là đánh giá ứng viên giải thưởng thông qua chất lượng các kết quả nghiên cứu cơ bản được ứng viên công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín. – Chất lượng các kết quả nghiên cứu cơ bản được xác định qua ý nghĩa và giá trị của nghiên cứu, có tham khảo chất lượng, xếp hạng tạp chí khoa học đăng tải các kết quả nghiên cứu cơ bản. – Việc đánh giá chất lượng các kết quả nghiên cứu cơ bản, lựa chọn ứng viên giải thưởng được thực hiện qua hai vòng đánh giá nghiêm cẩn, vòng 1 đánh giá bởi các Hội đồng khoa học nghiên cứu cơ bản của NAFOSTED là các nhà khoa học cùng ngành, vòng 2 đánh giá bởi Hội đồng Giải thưởng, là các nhà khoa học xuất sắc, uy tín cao ở nhiều ngành khác nhau. Cả hai vòng đánh giá đều có tham khảo đánh giá của chuyên gia quốc tế độc lập. Uy tín, sự thành công trong nghiên cứu khoa học của các thành viên Hội đồng Giải thưởng trong môi trường học thuật quốc tế đỉnh cao và công tác đánh giá xét chọn hoàn toàn chủ động, dân chủ và độc lập của Hội đồng Giải thưởng cũng là những yếu tố quan trọng đem lại thành công, chất lượng và uy tín cho Giải thưởng. Giải thưởng đã góp phần động viên, khích lệ các nhà khoa học thực hiện các nghiên cứu cơ bản xuất sắc, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học trong nước hội nhập quốc tế. GS.TS Nguyễn Hữu Việt Hưng – Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2014 – Cái thú vị nằm ở những công trình sắp được nghiên cứu PGS.TS. Nguyễn Bá Ân – Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2014 – “Chỉ cần một photon có tần số vượt ngưỡng” PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan – Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020 GS.TSKH. Ngô Việt Trung – Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2022 Tính đến hết năm 2022, 18 nhà khoa học là tác giả của các công trình khoa học xuất sắc và 04 nhà khoa học trẻ đã được trao tặng Giải thưởng trong tổng số hơn 400 hồ sơ đăng ký tham dự. Giải thưởng đã ghi nhận sự phân bố đa dạng các nhà khoa học về độ tuổi, về giới tính, về vùng miền trên cả nước. Giải thưởng được trao cho các nhà khoa học thuộc đầy đủ các ngành trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật, với các công trình tính lý thuyết thuần túy (thuộc các ngành Toán học, Vật lý, Khoa học thông tin và máy tính), cũng như các công trình có tính ứng dụng cao, sát với thực tế của Việt Nam (thuộc các ngành Vật lý – vật liệu, Hóa học, Khoa học trái đất và môi trường, Y dược, Nông nghiệp). Thống kê nhà khoa học đoạt Giải thưởng Tạ Quang Bửu theo giới tính và vùng miền Ngày 15 tháng 8 năm 2023, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 18/2023/TT-BKHCN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Giải thưởng Tạ Quang Bửu ban hành kèm theo Thông tư số 01/2015/TT-BKHCN ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (sau đây gọi tắt là Thông tư số 18). Đây là kết quả của quá trình tiếp nhận những ý kiến đóng góp tâm huyết từ các nhà khoa học, nhà quản lý trong các Hội đồng khoa học chuyên ngành, Hội đồng Giải thưởng và từ các tổ chức khoa học công nghệ trên khắp cả nước với mong muốn Giải thưởng được tổ chức tốt hơn nữa, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, đáp ứng lòng mong mỏi của cộng đồng khoa học nói chung và cộng đồng khoa học nghiên cứu cơ bản nói riêng. Theo đó, Giải thưởng Tạ Quang Bửu sẽ mở rộng việc xem xét trao giải thưởng cho các nhà khoa học nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội, Khoa học nhân văn. Thực tế cho thấy, sau thời gian triển khai và đạt được những kết quả nhất định trong lĩnh vực Khoa học tự nhiên và kỹ thuật, việc mở rộng Giải thưởng sang lĩnh vực Khoa học xã hội, Khoa học nhân văn là cần thiết. Các tiêu chí đánh giá, xét tặng Giải thưởng được áp dụng chung bên cạnh việc xem xét tính đặc thù trong mỗi lĩnh vực. Giải thưởng sẽ tiếp nhận hồ sơ theo hình thức đề

Kết quả tài trợ nổi bật, Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Các nhà khoa học Việt Nam tham gia đóng góp trong kết quả nghiên cứu về Quản trị rủi ro do lũ lụt và hạn hán mới được Nature công bố

Nature là một trong những tạp chí lâu đời, uy tín và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất trong giới khoa học. Ra đời ngày 04/11/1869, trong hơn 150 năm lịch sử, Nature đã xuất bản hơn 150.000 công trình nghiên cứu, chưa kể tới các ấn phẩm khác bao gồm truyền thông khoa học, các bài báo, góc nhìn tri thức, thông tin khoa học. Mỗi năm, Tạp chí Nature nhận được hơn 10.000 bài gửi đến, nhưng chỉ có 8% trong số đó lọt qua được vòng bình duyệt và được công bố. Các công trình khoa học công bố trên tạp chí này đạt trình độ nghiên cứu cơ bản (NCCB) xuất sắc, có tính đột phá, có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với cộng đồng khoa học và mà còn cả xã hội. Vừa qua, ngày 3 tháng 8 năm 2022, Tạp chí Nature đã công bố nghiên cứu “The challenge of unprecedented floods and droughts in risk management” (Thách thức của lũ lụt và hạn hán chưa từng có trong quản trị rủi ro) do TS. Heidi Kreibich – Trung tâm nghiên cứu GFZ (Đức) đứng đầu, hợp tác thực hiện với nhiều chuyên gia trong lĩnh vực thủy văn trên khắp thế giới, trong đó có nhóm các nhà khoa học thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, Việt Nam. Đây là nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng đối với thế giới về vai trò của quản lý rủi ro nhằm giảm nhẹ thiệt hại do lũ lụt và hạn hán, đặc biệt trong bối cảnh khí hậu toàn cầu đang ngày càng trở nên khắc nghiệt. Bài báo sau khi được công bố đã lập tức thu hút sự quan tâm của giới khoa học và truyền thông. Nghiên cứu đã tổng hợp và phân tích 45 cặp sự kiện cực đoan (hạn hán hoặc lũ lụt), cách nhau trung bình 16 năm, xảy ra tại 45 khu vực có sự khác biệt lớn về cơ cấu dân số, điều kiện kinh tế – xã hội, khí hậu và thủy văn (Hình 1). Kết quả chỉ ra rằng việc triển khai các biện pháp quản lý rủi ro đầy đủ thường giúp giảm nhẹ thiệt hại. Vấn đề nằm ở chỗ: nếu các sự kiện cực đoan xảy ra ở một khu vực chưa từng trải qua sự kiện có cường độ tương tự trước đây, thì việc giảm nhẹ các tác động là đặc biệt khó khăn. Hình 1. Vị trí của 45 cặp sự kiện hạn hán/lũ lụt được phân tích trong nghiên cứu, cũng như kết quả đánh giá chỉ số mức độ thay đổi của sự kiện sau so với sự kiện trước trong các cặp sự kiện, phân tích theo các khía cạnh: tác động (impact), nguy cơ (hazard), mức phơi lộ (exposure), tính dễ bị tổn thương (vulnerability), và sự cải thiện trong hệ thống và phương thức quản trị. Chỉ số mức độ thay đổi được đánh giá theo 5 mức: tăng mạnh (+2), tăng nhẹ (+1), không thay đổi (0), giảm nhẹ (-1), giảm mạnh (-2). Trong 45 cặp sự kiện cực đoan, nhóm các nhà khoa học gồm TS. Huỳnh Thị Thảo Nguyên, ThS. Phạm Thị Thảo Nhi, ThS. Trần Thị Vân Thư, PGS.TS. Nguyễn Hồng Quân thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh đóng góp việc tổng hợp, phân tích 3 cặp sự kiện xảy ra tại Việt Nam; PGS.TS. Ngô Đức Thành, Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội tham gia tổng hợp, phân tích 1 cặp sự kiện. Kết quả của nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình giảm thiểu rủi ro do lũ lụt và hạn hán gây ra trên toàn thế giới, qua đó có thêm cơ sở để đưa ra các chính sách phù hợp góp phần phát triển kinh tế – xã hội của thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Bài báo ghi nhận tài trợ kinh phí của nhiều cơ quan, tổ chức tài trợ uy tín trên khắp thế giới như Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức (BMBF), Bộ Giáo dục và Đổi mới Tây Ban Nha, Bộ Kinh tế và Chính sách khí hậu Hà Lan, Quỹ Nghiên cứu và Phát triển Quốc gia Chile, Hội đồng nghiên cứu Môi trường Vương quốc Anh (NERC – UKRI), Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED – thông qua đề tài NCCB mã số 105.06-2019.20 do PGS.TS. Đào Nguyên Khôi làm Chủ nhiệm đề tài), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh… Những năm gần đây, thông qua tài trợ của NAFOSTED, lực lượng nghiên cứu tại các tổ chức khoa học và công nghệ trên khắp cả nước có sự phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất lượng, với những công bố khoa học có chất lượng vượt trội. Trước đó, năm 2013, sự kiện nhà khoa học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội hợp tác với Trường Đại học Columbia, Hoa Kỳ công bố kết quả nghiên cứu về lĩnh vực nghiên cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm (Vol. 501, p. 204-207, 12 Sep., 2013) trên tạp Nature đã được bình chọn là một trong 10 sự kiện khoa học công nghệ nổi bật của năm. Các nhà khoa học Việt Nam bao gồm GS.TS. Phạm Hùng Việt, TS. Phạm Thị Kim Trang, Vi Mai Lan, Nguyễn Ngọc Mai, Đào Mạnh Phú đã có đóng góp từ việc đề xuất ý tưởng đến việc trực tiếp thực nghiệm, khảo sát hiện trường và xử lý số liệu. Công trình nghiên cứu được hoàn thành nhờ sự tài trợ một phần kinh phí của NAFOSTED. Năm 2017, TS. Nguyễn Thị Ánh Dương, Viện

Kết quả tài trợ nổi bật, Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp nhận bản thảo bộ Lịch sử Việt Nam

Sáng ngày 12/11/2020 tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH&CN) đã tổ chức Lễ tiếp nhận bản thảo Bộ Lịch sử Việt Nam gồm 25 tập Lịch sử Việt Nam và 5 tập Biên niên sự kiện lịch sử. Tham dự sự kiện, có Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, Văn phòng Chính phủ, Bộ KH&CN, các nhà khoa học tham gia biên soạn Bộ Lịch sử Việt Nam. Buổi lễ cũng có sự tham dự của các cơ quan về KH&CN như Ủy ban KHCN&MT Quốc hội, Viện Hàn lâm KHXH, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội và các phóng viên báo chí. GS.TS. Nguyễn Văn Khánh bàn giao bản thảo cho ông Đỗ Tiến Dũng, Giám đốc CQĐH Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia Đề án khoa học xã hội cấp quốc gia “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam” là một đề án có tầm quan trọng đặc biệt, được Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ quan tâm, chỉ đạo. Bộ KH&CN giao Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ) tổ chức thực hiện Đề án. Thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư “huy động tham gia của các nhà sử học trong cả nước, nhất là các chuyên gia đầu ngành về lịch sử dân tộc từ cổ đại đến hiện đại, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng, lịch sử quân sự, lịch sử an ninh, văn hóa và khảo cổ học và các nhà lãnh đạo, quản lý và khoa học trong các lĩnh vực liên quan khác”, tham gia thực hiện Đề án là đội ngũ đông đảo gần 300 nhà khoa học thuộc các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy lịch sử trên cả nước, tại các viện nghiên cứu, các trường đại học, tập trung chủ yếu ở Hà Nội, Thừa Thiên – Huế và Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ KH&CN đã thành lập Ban Chủ nhiệm và thư ký kho học Đề án (bao gồm 6 thành viên) và Hội đồng Khoa học Đề án (bao gồm 21 thành viên), là các nhà khoa học có năng lực, kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực để tổ chức thực hiện Đề án, đảm bảo chất lượng và tính thống nhất của bộ Quốc sử. Cố Giáo sư Phan Huy Lê là Tổng chủ biên của Bộ Lịch sử Việt Nam, đồng thời là Chủ nhiệm, Chủ tịch Hội đồng khoa học Đề án. Việc triển khai hoạt động nghiên cứu, biên soạn được bắt đầu từ năm 2015, bao gồm xây dựng hệ thống đề tài, thuyết minh và kế hoạch thực hiện các đề tài thuộc Đề án, tổ chức thực hiện nghiên cứu các nội dung đề ra (2015-2016); Triển khai biên soạn, đánh giá chương viết thử, biên soạn bản thảo, tự đánh giá, bổ sung hoàn thiện bản thảo chính thức (2017-2018); Đánh giá cấp Đề án các đề tài, tổ chức các hội thảo khoa học trao đổi, thống nhất các vấn đề biên tập, thống nhất nguyên tắc chỉnh sửa, hoàn thiện bản thảo, chỉnh sửa, nâng cấp và hoàn thiện bản thảo để chuẩn bị hồ sơ nghiệm thu cấp quốc gia (2019-2020). Sau 5 năm thực hiện, bộ Lịch sử Việt Nam được biên soạn gồm 25 tập Lịch sử Việt Nam (13 tập thời kỳ cổ – trung đại, 12 tập thời kỳ cận – hiện đại) và 5 tập Biên niên sự kiện lịch sử (3 tập thời kỳ cổ – trung đại, 2 tập thời kỳ cận– hiện đại) đã hoàn thành bản thảo, để chuẩn bị đánh giá, nghiệm thu cấp quốc gia.   Tại lễ tiếp nhận, Ban Chủ nhiệm Đề án đã báo cáo về quá trình thực hiện cũng như nội dung của từng nhiệm vụ thuộc đề án. Các thành viên Ban Chủ nhiệm đề án đánh giá Bộ Lịch sử Việt Nam được biên soạn với tinh thần trách nhiệm cao, là thành quả lao động miệt mài của các nhà khoa học. Thực hiện yêu cầu chất lượng được đặt lên hàng đầu, Ban Biên soạn đã tổng hợp toàn bộ kết quả nghiên cứu của nền sử học Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu có giá trị của giới Việt Nam học quốc tế, bảo đảm tính khách quan, trung thực, tôn trọng sự thật lịch sử; bản thảo được trình bày theo chuẩn mực quốc gia và quốc tế, vận dụng phương pháp luận nghiên cứu hiện đại, “tái hiện và phân tích lịch sử dựa trên cơ sở tư liệu được thu thập và giám định”, nghiên cứu “điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái” khi phục dựng các sự kiện lịch sử, “quán triệt đặc điểm đa tộc người”, “bao quát lịch sử các cộng đồng cư dân, tộc người, vương quốc đã từng tồn tại trên không gian lãnh thổ”…. Đại diện Ban chủ nhiệm Đề án báo cáo tại buổi lễ (trái qua GS.TSKH. Vũ Minh Giang, PGS.TS. Trần Đức Cường, GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc) Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc cho biết đây là đề án được Bộ KH&CN ban hành quy chế riêng để đảm bảo việc thực hiện và biên soạn được thống nhất. Bản thảo bộ sách với 25 tập lịch sử Việt Nam, 5 tập biên niên sử là kết quả kết tinh lao động trí tuệ của các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Thứ trưởng cũng gửi lời tri ân tới cố GS. Phan Huy Lê, nguyên Chủ nhiệm HĐKH Đề án cũng như đã gửi lời cảm ơn, ghi nhận đóng góp của tập thể các nhà khoa học. Thứ trưởng Phạm Công Tạc phát biểu tại buổi lễ Phát biểu kết luận buổi lễ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định đây là một

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Nhà khoa học nữ Việt Nam công bố công trình trên tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới

TS. Nguyễn Thị Ánh Dương, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Việt Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và các nhà khoa học Quốc tế vừa công bố bài báo trên tạp chí Nature – tạp chí khoa học uy tín nhất trên thế giới (7/2019). Công trình ghi nhận sự tài trợ kinh phí của NAFOSTED thông qua đề tài NCCB mã số 106.05 – 2017.330. Nature là tạp chí, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1869 và được xếp hạng là tạp chí khoa học uy tín và có trích dẫn nhiều nhất. Những bài báo hoặc công trình đăng trong tạp chí này được cộng đồng các nhà khoa học đánh giá rất cao. Bài báo đăng trên tạp chí Nature là tiêu chí để đánh giá chất lượng khoa học của công trình. Chỉ có những công trình có chất lượng khoa học vượt trội mới được tạp chí chấp nhận xuất bản. Tác giả của các công trình này là những nhà khoa học xuất sắc, có đầu tư nghiên cứu bài bản, có hệ thống và đạt trình độ chuyên sâu của lĩnh vực khoa học đang nghiên cứu. Dù ở lĩnh vực chuyên môn nào, có bài báo hoặc công trình đăng trên tạp chí Nature là niềm tự hào và ước mơ của mỗi nhà khoa học. Vị trí thu mẫu tuyến trùng trên toàn thế giới Tuyến trùng là nhóm sinh vật đa dạng và phong phú bậc nhất trên thế giới. Chúng sinh sống ở hầu như tất cả các môi trường từ môi trường nước mặn, nước ngọt, sống tự do hay là sống ký sinh… Những nghiên cứu về tuyến trùng thực vật và tuyến trùng biển đã được thực hiện từ rất lâu trên thế giới. Nhưng những nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất còn rất hạn chế. Chúng là một trong những nhóm sinh vật đa dạng và đóng vai trò quan trọng trong tất các các mắt xích của mạng lưới thức ăn, góp phần luân chuyển carbon, chất dinh dưỡng, khoáng hóa trong đất. Tuyến trùng ăn vi khuẩn, nấm, thực vật và các sinh vật đất khác và thải ra các vật chất khoáng hóa, luân chuyển carbon trong đất. Hoạt động này giúp đất được cải thiện và tạo ra các vật liệu khoáng, carbon giúp cho cây phát triển. Tuyến trùng thường hoạt động mạnh hơn khi nhiệt độ tăng lên, do đó quần thể tuyến trùng ở Bắc cực và cận Bắc cực được sử dụng như một tiêu chí đánh giá và thể hiện mức độ nhạy cảm khi nhiệt độ của vùng nóng lên. Số lượng tuyến trùng trong 100 gram đất khô trên toàn thế giới Tiến sĩ Nguyễn Thị Ánh Dương đã tham gia triển khai nghiên cứu và thu thập số liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu về tuyến trùng ở Việt Nam trong hơn 10 năm, Tiến sĩ đã cộng tác với 70 nhà khoa học hàng đầu về lĩnh vực tuyến trùng học ở 57 phòng thí nghiệm trên toàn thế giới cùng nghiên cứu và xuất bản công trình này. Trong nghiên cứu này, 6.759 mẫu đất trên khắp thế giới đại diện cho 73 vùng tiểu khí hậu đã được thu thập và phân tích để xác định tính đa dạng và chức năng của nhóm sinh vật nhỏ bé. Nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng tuyến trùng sống tự do trong đất lớn hơn rất nhiều so với những nghiên cứu trước đây. Chúng có số lượng khoảng 4.4 ± 0.64 × 1020 và tổng sinh khối khoảng 300 triệu tấn – xấp xỉ 80% trọng lượng kết hợp của 7.7 tỷ người tương đương dân số trên trái đất. Nghiên cứu cũng cung cấp những bằng chứng cho thấy phần lớn tuyến trùng tập trung tại những nơi có vĩ độ cao: 38,7% tồn tại trong các khu rừng phương bắc và lãnh nguyên trên khắp Bắc Mỹ, Scandinavia và Nga, 24,5% ở vùng ôn đới, và chỉ 20,5% ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đây có thể coi là bộ dữ liệu khoa học đồ sộ nhất từ trước tới nay. Vẻ đẹp của tuyến trùng dưới kính hiển vi điện tử quét (SEM): A, Tricironema tamdaoensis; B: Acrobeloides topali, C: Acrobeloides topali Hình ảnh thu mẫu đất tuyến trùng ngoài thực địa (Hữu Lũng, Lạng Sơn) năm 2013 Kết quả nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cở sở khoa học để phát triển thế giới bền vững. Đặc biệt những ứng dụng của nhóm sinh vật này được đưa ra để dự đoán biến đổi khí hậu toàn cầu. Từ đó chúng ta có thể thấy chuyên ngành tuyến trùng hẹp nhưng ngành này lại đóng vai trò rất quan trọng để mở ra những hướng nghiên cứu và ứng dụng mới. Công trình nghiên cứu xuất sắc này của TS. Nguyễn Thị Ánh Dương và các cộng sự một lần nữa khẳng định: Mọi lĩnh vực nghiên cứu dù hẹp hay rộng, khi được đầu tư nghiên cứu bài bản, cùng sự lao động khoa học nghiêm túc, có hệ thống, có điều kiện nghiên cứu đầy đủ và có sự kết hợp của tập thể đều có thể đạt được đến trình độ cao về khoa học. Nhà khoa học Việt Nam có niềm đam mê, hoài bão, được đào tạo cơ bản, tiên tiến đều có khả năng, trình độ và đạt được kết quả nghiên cứu tiên tiến sánh ngang với các nhà khoa học của các nước phát triển trên thế giới. Tin: VAST

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Kết quả nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen trong nước ngầm được công bố trên Tạp chí Nature

Tạp chí khoa học hàng đầu thế giới Nature vừa công bố kết quả nghiên cứu xuất sắc của các nhà khoa học ĐHQGHN (hợp tác với Trường ĐH Columbia – Hoa Kì) trong lĩnh vực nghiên cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm. Ô nhiễm asen trong nước ngầm tầng nước nông (tầng Holocene)là một trong những mối đe dọa sức khỏe lớn nhất ở các nước đang phát triển. Tại đồng bằng sông Hồng nước ngầm đang là nguồn nước chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt của một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới. Đứng trước mối nguy cơ đó, từ năm 1998 đến nay, Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi trường và Phát triển Bền vững (CETASD), Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN đã cùng hợp tác với các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu uy tín trên thế giới để triển khai hướng nghiên cứu về ô nhiễm asen trong nước ngầm tại Việt Nam với mục đích phát hiện và khoanh vùng những khu vực ô nhiễm cũng như tìm hiểu cơ chế phát sinh ô nhiễm asen để có biện pháp giảm thiểu. Thực tế, các kết quả nghiên cứu trước đây của CETASD đã được sử dụng làm cơ sở khoa học góp phần tư vấn cho Chính phủ xây dựng “Chiến lược hành động quốc gia về nghiên cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm và giải pháp khắc phục”, đồng thời đã và sẽ đóng góp vào cơ sở dữ liệu khoa học giúp cho các nhà quản lý hoạch định chính sách về quản lý khai thác nước ngầm và định hướng về việc khai thác nước mặt dần thay thế cho nước ngầm tại Hà Nội bắt đầu từ nhiều năm nay. Bản đồ các địa điểm nghiên cứu Mới đây, các kết quả nghiên cứu “Cơ chế làm chậm sự di chuyển của asen qua tầng chứa nước sâu Pleistocene” (Retardation of arsenic transport through a Pleistocene aquifer) của nhóm nghiên cứu Địa hóa môi trường của Trung tâm CETASD hợp tác với các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Columbia đã được xuất bản trên Tạp chí Nature (Vol. 501, p. 204-207, 12 Sep., 2013). Một số nhà khoa học của nhóm nghiên cứu (từ trái sang: GS.TS Phạm Hùng Việt – giám đốc CETASD, ThS. Vi Mai lan, GS.TS. Benjamin Bostick – ĐH Columbia) tại phòng thí nghiệm của CETASD (Ảnh: Bùi Tuấn) Nghiên cứu này được thực hiện tại bãi giếng khoan tại xã Vạn Phúc nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km về phía Đông Nam, nơi có hiện tượng độc đáo là có vùng chuyển giữa hai môi trường có nồng độ asen hòa tan thấp và cao rất sắc nét, và đặc biệt vùng ranh giới chuyển tiếp này đang có nguy cơ di chuyển về phía tây tương ứng với sự tăng cường mức độ khai thác (bơm hút) nước ngầm ở Hà Nội. Các phát hiện của công trình nghiên cứu này được tóm tắt như sau: “Tầng chứa nước nông Holocene là nguồn gây ô nhiễm asen tại khu vực nghiên cứu tại xã Vạn Phúc, ngược lại, tầng cát Pleistocene được tích tụ từ hơn 12.000 năm trước chứa nước ngầm với nồng độ asen rất thấp. Các tầng chứa nước sâu Pleistocene ngày càng được khai thác nhiều để cung cấp nguồn nước an toàn, vì thế cần phải nghiên cứu rõ hàm lượng ô nhiễm asen thấp đó đã được duy trì dưới những điều kiện nào. Trong nghiên cứu này, giai đoạn đầu của sự ô nhiễm tầng chứa nước Pleistocene đã được tái tạo lại và đã chứng minh được rằng những thay đổi về các điều kiện dòng chảy nước ngầm và trạng thái oxy hóa khử của tầng cát chứa nước do sự bơm hút nước ngầm đã gây ra sự xâm nhập ô nhiễm asen dọc từ tầng Holocene vào tầng Pleistocene hơn 120 m. Kết quả nghiên cứu cho thấy chính asen đã bị hấp phụ bởi các hạt cát trong tầng chứa nước. Do đó, phạm vi lây lan ô nhiễm asen giảm đi hơn 20 lần so với sự di chuyển dọc của nước ngầm trong cùng một giai đoạn nhất định. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng sự ô nhiễm asen trong tầng chứa nước Pleistocene ở khu vực Nam và Đông nam Á dưới tác động của việc khai thác nước ngầm có thể được làm chậm do sự lưu giữ asen trong quá trình di chuyển”. Theo GS.TS Nguyễn Hữu Đức – Phó Giám đốc ĐHQGHN: Tạp chí Nature là một tạp chí có uy tín hàng đầu thế giới, có chỉ số ảnh hưởng IF = 38. Mỗi năm, Tạp chí nhận được hơn 10.000 bài gửi đến, nhưng chỉ có 8% trong số đó lọt qua được vòng bình duyệt và được công bố. Các công trình khoa học công bố trên Tạp chí này đạt trình độ nghiên cứu cơ bản xuất sắc, có tính đột phá, có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với cộng đồng khoa học và mà còn cả xã hội. Trên thế giới, số lượng bài báo xuất bản trên tạp chí Nature không chỉ là chỉ số đánh giá phát minh và tài năng cá nhân các nhà khoa học mà còn đánh giá trình độ khoa học của các cơ sở đạo tạo và nghiên cứu, thậm chí cả trình độ khoa học của một quốc gia. Trong 10 năm qua, các cơ sở đào tạo và nghiên cứu của Việt Nam chúng ta mới chỉ có khoảng 5 công trình (thực hiện tại Việt Nam) được đăng trên Tạp chí Nature. Để có các nghiên cứu hoàn chỉnh, đỉnh cao, hợp tác quốc tế giữa các phòng thí nghiệm hiện đại và các nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới ngày càng trở nên phổ biến. Đối với công trình nghiên

Lên đầu trang