Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia

Truyền thông khoa học

Kết quả tài trợ nổi bật, Truyền thông khoa học

Nhà khoa học nữ Việt Nam công bố công trình trên tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới

TS. Nguyễn Thị Ánh Dương, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Việt Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và các nhà khoa học Quốc tế vừa công bố bài báo trên tạp chí Nature – tạp chí khoa học uy tín nhất trên thế giới (7/2019). Công trình ghi nhận sự tài trợ kinh phí của NAFOSTED thông qua đề tài NCCB mã số 106.05 – 2017.330. Nature là tạp chí, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1869 và được xếp hạng là tạp chí khoa học uy tín và có trích dẫn nhiều nhất. Những bài báo hoặc công trình đăng trong tạp chí này được cộng đồng các nhà khoa học đánh giá rất cao. Bài báo đăng trên tạp chí Nature là tiêu chí để đánh giá chất lượng khoa học của công trình. Chỉ có những công trình có chất lượng khoa học vượt trội mới được tạp chí chấp nhận xuất bản. Tác giả của các công trình này là những nhà khoa học xuất sắc, có đầu tư nghiên cứu bài bản, có hệ thống và đạt trình độ chuyên sâu của lĩnh vực khoa học đang nghiên cứu. Dù ở lĩnh vực chuyên môn nào, có bài báo hoặc công trình đăng trên tạp chí Nature là niềm tự hào và ước mơ của mỗi nhà khoa học. Vị trí thu mẫu tuyến trùng trên toàn thế giới Tuyến trùng là nhóm sinh vật đa dạng và phong phú bậc nhất trên thế giới. Chúng sinh sống ở hầu như tất cả các môi trường từ môi trường nước mặn, nước ngọt, sống tự do hay là sống ký sinh… Những nghiên cứu về tuyến trùng thực vật và tuyến trùng biển đã được thực hiện từ rất lâu trên thế giới. Nhưng những nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất còn rất hạn chế. Chúng là một trong những nhóm sinh vật đa dạng và đóng vai trò quan trọng trong tất các các mắt xích của mạng lưới thức ăn, góp phần luân chuyển carbon, chất dinh dưỡng, khoáng hóa trong đất. Tuyến trùng ăn vi khuẩn, nấm, thực vật và các sinh vật đất khác và thải ra các vật chất khoáng hóa, luân chuyển carbon trong đất. Hoạt động này giúp đất được cải thiện và tạo ra các vật liệu khoáng, carbon giúp cho cây phát triển. Tuyến trùng thường hoạt động mạnh hơn khi nhiệt độ tăng lên, do đó quần thể tuyến trùng ở Bắc cực và cận Bắc cực được sử dụng như một tiêu chí đánh giá và thể hiện mức độ nhạy cảm khi nhiệt độ của vùng nóng lên. Số lượng tuyến trùng trong 100 gram đất khô trên toàn thế giới Tiến sĩ Nguyễn Thị Ánh Dương đã tham gia triển khai nghiên cứu và thu thập số liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu về tuyến trùng ở Việt Nam trong hơn 10 năm, Tiến sĩ đã cộng tác với 70 nhà khoa học hàng đầu về lĩnh vực tuyến trùng học ở 57 phòng thí nghiệm trên toàn thế giới cùng nghiên cứu và xuất bản công trình này. Trong nghiên cứu này, 6.759 mẫu đất trên khắp thế giới đại diện cho 73 vùng tiểu khí hậu đã được thu thập và phân tích để xác định tính đa dạng và chức năng của nhóm sinh vật nhỏ bé. Nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng tuyến trùng sống tự do trong đất lớn hơn rất nhiều so với những nghiên cứu trước đây. Chúng có số lượng khoảng 4.4 ± 0.64 × 1020 và tổng sinh khối khoảng 300 triệu tấn – xấp xỉ 80% trọng lượng kết hợp của 7.7 tỷ người tương đương dân số trên trái đất. Nghiên cứu cũng cung cấp những bằng chứng cho thấy phần lớn tuyến trùng tập trung tại những nơi có vĩ độ cao: 38,7% tồn tại trong các khu rừng phương bắc và lãnh nguyên trên khắp Bắc Mỹ, Scandinavia và Nga, 24,5% ở vùng ôn đới, và chỉ 20,5% ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đây có thể coi là bộ dữ liệu khoa học đồ sộ nhất từ trước tới nay. Vẻ đẹp của tuyến trùng dưới kính hiển vi điện tử quét (SEM): A, Tricironema tamdaoensis; B: Acrobeloides topali, C: Acrobeloides topali Hình ảnh thu mẫu đất tuyến trùng ngoài thực địa (Hữu Lũng, Lạng Sơn) năm 2013 Kết quả nghiên cứu về nhóm tuyến trùng sống tự do trong đất đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cở sở khoa học để phát triển thế giới bền vững. Đặc biệt những ứng dụng của nhóm sinh vật này được đưa ra để dự đoán biến đổi khí hậu toàn cầu. Từ đó chúng ta có thể thấy chuyên ngành tuyến trùng hẹp nhưng ngành này lại đóng vai trò rất quan trọng để mở ra những hướng nghiên cứu và ứng dụng mới. Công trình nghiên cứu xuất sắc này của TS. Nguyễn Thị Ánh Dương và các cộng sự một lần nữa khẳng định: Mọi lĩnh vực nghiên cứu dù hẹp hay rộng, khi được đầu tư nghiên cứu bài bản, cùng sự lao động khoa học nghiêm túc, có hệ thống, có điều kiện nghiên cứu đầy đủ và có sự kết hợp của tập thể đều có thể đạt được đến trình độ cao về khoa học. Nhà khoa học Việt Nam có niềm đam mê, hoài bão, được đào tạo cơ bản, tiên tiến đều có khả năng, trình độ và đạt được kết quả nghiên cứu tiên tiến sánh ngang với các nhà khoa học của các nước phát triển trên thế giới. Tin: VAST

Thông báo, Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Giới thiệu về chương trình Hội nghị thượng đỉnh các nhà khoa học trẻ toàn cầu 2020 (Global Young Scientists Summit 2020 – GYSS 2020)

Hội nghị thượng đỉnh các nhà khoa học trẻ toàn cầu (Global Young Scientist Summit – GYSS) được Quỹ Nghiên cứu quốc gia của Singapore (NRF Singapore) tổ chức thường niên. Hội nghị được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2013, tại Singapore. Với chủ đề “Advancing Science, Creating Technologies for a Better World”, GYSS là diễn đàn đa ngành, đa văn hóa, đa thế hệ, một nơi mà các nhà khoa học trẻ trên toàn thế giới tới tham dự và trao đổi trực tiếp với các nhà khoa học danh tiếng và các nhà lãnh đạo về công nghệ trên thế giới. Bên cạnh đó, các nhà khoa học trẻ còn có cơ hội tham quan các trường đại học, viện nghiên cứu; tham dự các hoạt động trải nghiệm nền văn hóa đa dạng của Singapore. GYSS 2020 diễn ra vào năm 2020 là lần thứ 8 hội nghị được tổ chức. GYSS 2020 mang đến nhiều diễn giả là nhà khoa học uy tín, được công nhận với các giải thưởng khoa học lớn trên thế giới. Thời gian:  14-17/1/2020 Địa điểm: Biopolis@one-north, Singapore Lĩnh vực: Hóa học, Vật lý, Y dược, Toán học, Khoa học máy tính và kỹ thuật Ngôn ngữ sử dụng trong hội nghị: Tiếng Anh Diễn giả tại GYSS 2020: Aaron Ciechanover, Nobel Prize in Chemistry Tim Hunt, Nobel in Medicine or Physiology Klaus von Klitzing, Nobel Prize in Physics John Hopcroft, Turing Award Silvio Micali, Turing Award Ngo Bao Chau, Fields Medal Michale Graetzel, Millennium Technology Prize Leslie Valiant, Turing Award Kurt Wuthrich, Nobel Prize in Chemistry Ada Yonath, Nobel Prize in Chemistry Efim Zelmanov, Fields Medal Leslie Valiant, Turing Award Chi phí: Chi phí ăn ở tại Singapore trong thời gian, khuôn khổ của hội nghị: do Quỹ NRF Singapore tài trợ; Chi phí đi lại Việt Nam – Singapore – Việt Nam: do người tham dự tự chi trả. Đối tượng đăng ký tham dự: Đang là: Sinh viên đại học, Sinh học cao học, Nghiên cứu sinh tiến sỹ, Nhà khoa học trẻ đang thực hiện chương trình sau tiến sỹ. Lưu ý, những người có nắm giữ danh hiệu liên quan tới cấp bậc giáo sư không thể đăng ký; Không quá 35 tuổi (tính tới tháng 1/2020); Chưa từng tham gia các hội nghị GYSS trước đó; Thành thạo tiếng Anh, đủ khả năng tham gia vào các buổi thảo luận, hoạt động trong khuôn khổ hội nghị; Thể hiện được sự quan tâm thực sự tới khoa học và nghiên cứu Thể hiện được sự gắn kết với lĩnh vực nghiên cứu chính đang theo đuổi, sẵn sàng với các nghiên cứu liên ngành. Có thư giới thiệu của trưởng khoa, hoặc một nhà khoa học danh tiếng trên thế giới. Cách thức đăng ký tham dự: Các nhà khoa học trẻ Việt Nam phù hợp với các tiêu chí nêu trên và mong muốn tham dự hội nghị, có thể liên hệ với ban tổ chức và đăng ký tại trang chủ sự kiện: https://www.nrf.gov.sg/gyss/contact Một số mốc thời gian dự kiến Tháng 8-9/2019: Ban tổ chức GYSS sẽ nhận đăng ký, và liên lạc trực tiếp với người đăng ký để tiến hành đánh giá hồ sơ Từ tháng 10/2019: Ban tổ chức GYSS thông báo đến người đăng ký về kết quả lựa chọn. Tham khảo thêm thông tin về GYSS 2020 và các kỳ GYSS trước đó, xin xem tại: https://www.nrf.gov.sg/gyss/home Tiêu chí đánh giá người tham dự của ban tổ chức GYSS: xem bản tiếng anh tại đây. Tin: HàNT

Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Lễ kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Chiều 18/5, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổ chức kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2019 và Giải Báo chí viết về khoa học và công nghệ 2018. Tham dự Lễ kỷ niệm có các đồng chí Vũ Đức Đam, Phó Thủ tướng Chính phủ; lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành Trung ương; đại diện lãnh đạo viện nghiên cứu, trường đại học, nhà khoa học đoạt Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2019, tác giả đoạt Giải thưởng Báo chí về KH&CN năm 2018. Tham dự Lễ kỷ niệm còn có đông đảo cơ quan thông tấn báo chí trung ương và địa phương… Từ năm 2014 đến nay, Ngày KH&CN Việt Nam 18-5 đã trở thành ngày truyền thống, ngày hội quan trọng của Ngành KH&CN. Vào dịp này, nhiều hoạt động có ý nghĩa, thiết thực được tổ chức và nhận được sự quan tâm, hưởng ứng của cộng đồng các nhà khoa học và toàn xã hội. Ngày KH&CN Việt Nam năm nay được tổ chức với chủ đề: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – kiến tạo tương lai với mong muốn ngành KH&CN Việt Nam sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn, khẳng định được vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và xác định vị trí của Việt Nam trên bản đồ khu vực và thế giới. Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm nay được trao cho ba nhà khoa học gồm PGS.TSKH Phạm Đức Chính, Viện Cơ học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (lĩnh vực Cơ học); PGS.TS. Nguyễn Lê Khánh Hằng, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (lĩnh vực Y sinh Dược học) và TS. Lê Trọng Lư, Viện Kỹ thuật Nhiệt đới, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (lĩnh vực Vật lý). Giải thưởng Báo chí về KH&CN năm 2018 được trao cho 18 tác giả/nhóm tác giả có các tác phẩm/nhóm tác phẩm xuất sắc đến từ các cơ quan thông tấn báo chí lớn trong cả nước như: Báo Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam, VietNamNet, Đài truyền hình Việt Nam, Tuổi trẻ… Phát biểu tại lễ trao giải, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh chúc mừng và ghi nhận cống hiến của các tác giả đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ. Bộ trưởng  cho biết, Bộ KH&CN được Chính phủ giao nhiệm vụ huy động đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, xây dựng các chính sách để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Mọi nhiệm vụ hướng đến mục tiêu, giải quyết các bài toán lớn, đồng bộ, tổng thể theo chuỗi giá trị. Bộ trưởng cũng chúc mừng và ghi nhận cống hiến của các nhà báo có tinh thần khoa học, những nhà báo đã nỗ lực hết mình, tìm tòi, phát hiện, phản ánh mọi lĩnh vực của ngành KH&CN, đóng góp cho sự phát triển KH&CN của đất nước bằng chính các tác phẩm của mình. Đồng thời thông qua các bài viết góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của KH&CN trong thời kỳ phát triển và hội nhập. “Chúng ta tổ chức kỷ niệm Ngày KH&CN Việt Nam nhằm tri ân, tôn vinh các thế hệ đội ngũ cán bộ KH&CN, đồng thời khuyến khích niềm đam mê nghiên cứu khoa học của thế hệ trẻ – thế hệ tương lai của đất nước. Các sự kiện, hoạt động được tổ chức khắp cả nước trong dịp này còn là cơ hội để tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của KH&CN, kêu gọi sự quan tâm đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và ứng dụng giải pháp khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các nhà khoa học, doanh nghiệp, đội ngũ phóng viên, báo chí và toàn thể quý vị đại biểu có mặt tại hội trường hôm nay đều có tinh thần yêu KH&CN; đã và sẽ tiếp tục đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự phát triển của nền KH&CN Việt Nam”. Theo Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, trong hệ thống khoa học và công nghệ hiện nay, chúng ta cần quan tâm, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, trong đó có đội ngũ startup, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khoa học và công nghệ… Nhiệm vụ này đã được Bộ luôn chú trọng. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh phát biểu tại buổi Lễ kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18-5 Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh khẳng định, Đảng và Nhà nước luôn xác định KH,CN và đổi mới sáng tạo có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ chế, chính sách về KH&CN đã được tập trung hoàn thiện với nhiều quy định tiến bộ và đổi mới để KH&CN thực sự đồng hành và thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực và địa phương. Là nhà khoa học nữ lần đầu tiên được vinh danh trong Giải thưởng Tạ Quang Bửu, PGS.TS. Nguyễn Lê Khánh Hằng cho rằng, các cơ quan quản lý khoa học thời gian qua tạo môi trường, cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn tài trợ nghiên cứu và hướng đến các công trình nghiên cứu hội nhập quốc tế. Việc tổ chức giải thưởng cũng góp phần tôn vinh, nuôi dưỡng niềm đam mê nghiên cứu tới các nhà khoa học. PGS.TSKH. Phạm Đức Chính cũng đánh giá cao khi Giải thưởng tổ

Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng Quỹ NAFOSTED và Quỹ NATIF

Trong khuôn khổ chương trình làm việc của Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2018”, sáng ngày 25/3, Đoàn Giám sát đã làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) về tình hình hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia (NAFOSTED) và Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF) thuộc Bộ. Tham dự buổi làm việc, về phía Lãnh đạo đoàn giám sát có đồng chí Nguyễn Đức Hải, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, Trưởng đoàn giám sát; đồng chí Nguyễn Hữu Quang, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, Phó Trưởng đoàn; đồng chí Dương Quốc Anh – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát. Về phía Bộ KH&CN có đồng chí Chu Ngọc Anh – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN. Cùng dự có đại diện Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước, các thành viên đoàn giám sát, lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ KH&CN. Toàn cảnh buổi làm việc.  Đưa chủ trương, chính sách vào cuộc sống Theo báo cáo của Bộ KH&CN, những năm qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cơ chế tài chính cho KH&CN đã có những bước đổi mới, trong đó có việc chuyển từ cơ chế cấp phát tài chính theo kế hoạch để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sang cơ chế quỹ với việc hình thành, ra đời Quỹ NAFOSTED và Quỹ NATIF. Định hướng hình thành và phát triển cả hai quỹ NAFOSTED và NATIF đều đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sau đó đã được Quốc hội thể chế hóa thành các quy định pháp luật về KH&CN. Nghị quyết số 142/2016/QH13 ngày 12/04/2016 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 chỉ rõ:“…Nghiên cứu, ban hành các cơ chế mang tính chất đột phá nhằm khuyến khích nghiên cứu khoa học và cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất lao động và gia tăng giá trị của sản phẩm”. Chủ trương của Đảng về phát triển KH&CN đã được Quốc hội thể chế hóa thành Luật KH&CN năm 2000 và năm 2013. Quỹ NAFOSTED được quy định tại Luật KH&CN năm 2000 (Điều 39) và Luật KH&CN năm 2013 (Điều 60). Năm 2003, Quỹ NAFOSTED được thành lập theo Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003 của Chính phủ, khai trương đi vào hoạt động từ tháng 02/2008 và bắt đầu hoạt động tài trợ, hỗ trợ từ tháng 11/2009. Việc ra đời và đi vào hoạt động của Quỹ được đánh giá là một trong những dấu ấn quan trọng trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý KH&CN. Quỹ NATIF được thành lập, hoạt động theo quy định tại Điều 39 của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 và Điều 38 của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017; Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 05/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia; Quyết định số 1051/QĐ-TTg ngày 03/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ về Tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia. Năm 2015, Quỹ chính thức đi vào hoạt động. Việc thành lập Quỹ NATIF thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ cũng như của Bộ KH&CN trong việc tập trung các nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy KH&CN và hoạt động đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước; xác định doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.  Điều đặc biệt, cơ chế thực hiện đối với cả 2 Quỹ nói trên đều rất đổi mới, linh hoạt, kịp thời và tiếp cận cách quản lý KH&CN trên thế giới. Đặc trưng lớn nhất của quỹ là tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động là đề cao tính tự quản, dân chủ và công khai. Ví dụ, với cơ chế tài chính hiện tại của Quỹ NATIF được NSNN cấp vốn để thực hiện tài trợ và chi hoạt động của Quỹ đã góp phần giúp Quỹ chủ động triển khai các hoạt động. Quỹ NATIF có thể tiếp nhận đề xuất và xét chọn các nhiệm vụ KH&CN quanh năm, cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ theo tiến độ thực hiện được phê duyệt trong thuyết minh và ký kết trong hợp đồng thực hiện nhiệm vụ mà không phải phụ thuộc vào năm kế hoạch, hay nói cách khác, phương thức cấp phát kinh phí được đổi mới hơn so với cách thức truyền thống. Hơn nữa, với một số vốn được cấp từ ngân sách, Quỹ NATIF có thể huy động được lượng vốn lớn hơn 2 đến 3 lần từ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Duy trì hoạt động của 2 Quỹ là thực sự cần thiết Tại buổi làm việc, phần lớn các thành viên Đoàn giám sát đều đánh giá cao các báo cáo của Bộ KH&CN, đồng tình với cách tiếp cận, đổi mới của 2 Quỹ và nhấn mạnh, đối với Việt Nam cần phải coi KH&CN là yếu tố then chốt hàng đầu để nâng cao năng suất, chất lượng, động lực phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, việc duy trì 2 Quỹ này thực sự

Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng Quỹ NAFOSTED và Quỹ NATIF

Trong khuôn khổ chương trình làm việc của Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2018”, sáng ngày 25/3, Đoàn Giám sát đã làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) về tình hình hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia (NAFOSTED) và Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF) thuộc Bộ. Tham dự buổi làm việc, về phía Lãnh đạo đoàn giám sát có đồng chí Nguyễn Đức Hải, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, Trưởng đoàn giám sát; đồng chí Nguyễn Hữu Quang, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, Phó Trưởng đoàn; đồng chí Dương Quốc Anh – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát. Về phía Bộ KH&CN có đồng chí Chu Ngọc Anh – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN. Cùng dự có đại diện Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước, các thành viên đoàn giám sát, lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ KH&CN.  Toàn cảnh buổi làm việc.  Đưa chủ trương, chính sách vào cuộc sống Theo báo cáo của Bộ KH&CN, những năm qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cơ chế tài chính cho KH&CN đã có những bước đổi mới, trong đó có việc chuyển từ cơ chế cấp phát tài chính theo kế hoạch để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sang cơ chế quỹ với việc hình thành, ra đời Quỹ NAFOSTED và Quỹ NATIF. Định hướng hình thành và phát triển cả hai quỹ NAFOSTED và NATIF đều đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sau đó đã được Quốc hội thể chế hóa thành các quy định pháp luật về KH&CN. Nghị quyết số 142/2016/QH13 ngày 12/04/2016 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 chỉ rõ:“…Nghiên cứu, ban hành các cơ chế mang tính chất đột phá nhằm khuyến khích nghiên cứu khoa học và cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất lao động và gia tăng giá trị của sản phẩm”. Chủ trương của Đảng về phát triển KH&CN đã được Quốc hội thể chế hóa thành Luật KH&CN năm 2000 và năm 2013. Quỹ NAFOSTED được quy định tại Luật KH&CN năm 2000 (Điều 39) và Luật KH&CN năm 2013 (Điều 60). Năm 2003, Quỹ NAFOSTED được thành lập theo Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003 của Chính phủ, khai trương đi vào hoạt động từ tháng 02/2008 và bắt đầu hoạt động tài trợ, hỗ trợ từ tháng 11/2009. Việc ra đời và đi vào hoạt động của Quỹ được đánh giá là một trong những dấu ấn quan trọng trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý KH&CN. Quỹ NATIF được thành lập, hoạt động theo quy định tại Điều 39 của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 và Điều 38 của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017; Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 05/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia; Quyết định số 1051/QĐ-TTg ngày 03/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ về Tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia. Năm 2015, Quỹ chính thức đi vào hoạt động. Việc thành lập Quỹ NATIF thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ cũng như của Bộ KH&CN trong việc tập trung các nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy KH&CN và hoạt động đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước; xác định doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.  Điều đặc biệt, cơ chế thực hiện đối với cả 2 Quỹ nói trên đều rất đổi mới, linh hoạt, kịp thời và tiếp cận cách quản lý KH&CN trên thế giới. Đặc trưng lớn nhất của quỹ là tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động là đề cao tính tự quản, dân chủ và công khai. Ví dụ, với cơ chế tài chính hiện tại của Quỹ NATIF được NSNN cấp vốn để thực hiện tài trợ và chi hoạt động của Quỹ đã góp phần giúp Quỹ chủ động triển khai các hoạt động. Quỹ NATIF có thể tiếp nhận đề xuất và xét chọn các nhiệm vụ KH&CN quanh năm, cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ theo tiến độ thực hiện được phê duyệt trong thuyết minh và ký kết trong hợp đồng thực hiện nhiệm vụ mà không phải phụ thuộc vào năm kế hoạch, hay nói cách khác, phương thức cấp phát kinh phí được đổi mới hơn so với cách thức truyền thống. Hơn nữa, với một số vốn được cấp từ ngân sách, Quỹ NATIF có thể huy động được lượng vốn lớn hơn 2 đến 3 lần từ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Duy trì hoạt động của 2 Quỹ là thực sự cần thiết Tại buổi làm việc, phần lớn các thành viên Đoàn giám sát đều đánh giá cao các báo cáo của Bộ KH&CN, đồng tình với cách tiếp cận, đổi mới của 2 Quỹ và nhấn mạnh, đối với Việt Nam cần phải coi KH&CN là yếu tố then chốt hàng đầu để nâng cao năng suất, chất lượng, động lực phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, việc duy trì 2 Quỹ này thực sự

Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Tạp chí tiếng Anh của Bộ KH&CN được chấp nhận tham gia cơ sở dữ liệu của ASEAN Citation Index

Tại Hội nghị lần thứ 6 của Ban chỉ đạo ASEAN Citation Index (ACI) diễn ra trong 2 ngày 31/10-1/11/2018 (Băng-cốc, Thái Lan), Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering (VJSTE) – tạp chí tiếng Anh của Bộ Khoa học và Công nghệ, đã chính thức được chấp nhận tham gia cơ sở dữ liệu ACI. Cùng với VJSTE còn có 2 tạp chí là Journal of Information and Telecomunition (Trường Đại học Tôn Đức Thắng) và Vietnam Journal of Mechanics (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam). Như vậy, hiện nay, Việt Nam đã có 9 tạp chí khoa học trong cơ sở dữ liệu của ACI, gồm: Biomedical Research and Therapy; Dalat University Journal of Science; Journal of Asian Business and Economic Studies; Journal of Economics and Development; Vietnam Journal of Earth Sciences; Vietnam Journal of Science and Technology; Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering; Journal of Information and Telecomunition; Vietnam Journal of Mechanics. ACI có chức năng lưu trữ, tìm kiếm bài báo và trích dẫn, giúp phân loại và đánh giá chất lượng tạp chí khoa học của các nước ASEAN. Để có mặt trong cơ sở dữ liệu này, các tạp chí khoa học cần phải đạt những tiêu chuẩn về hình thức và nội dung tiệm cận với tiêu chuẩn của Scopus. Tại Hội nghị lần này, Ban chỉ đạo ACI (do GS Narongrit  Sombatsompop làm Chủ tịch) cũng có buổi làm việc với đại diện của Scopus về kế hoạch lựa chọn những tạp chí khoa học có chất lượng tốt vào cơ sở dữ liệu của Scopus trong những năm tới. Như vậy, với việc tham gia cơ sở dữ liệu của ACI sẽ giúp cho các tạp chí khoa học có nhiều cơ hội được xét duyệt vào các cơ sở dữ liệu quốc tế như ISI hay Scopus. Trước đó, từ số 1/2018, VJSTE đã được chấp nhận vào cơ sở dữ liệu của CABI Abstracts và Global Health. CABI (Centre for Agriculture and Biosciences International) có trụ sở tại United Kingdom là một tổ chức quốc tế phi lợi nhuận có uy tín, phổ biến các tri thức khoa học trên toàn cầu trong các lĩnh vực khoa học sự sống từ năm 1913. Nguồn: Tạp chí KH&CN Việt Nam

Tin sự kiện, Tin tức, Truyền thông khoa học

Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê

Giáo sư, Nhà giáo nhân dân (GS.NGND) Phan Huy Lê, được biết đến là nhà khoa học tâm huyết có nhiều đóng góp cho nền sử học của đất nước, là người thầy mẫu mực được các nhà nghiên cứu lịch sử quý mến, kính trọng. Ông qua đời để lại niềm thương tiếc cho nhiều thế hệ học trò, đồng nghiệp, các nhà khoa học và những người yêu lịch sử Việt Nam. GS.NGND Phan Huy Lê Giáo sư Phan Huy Lê đã tham gia nhiều hoạt động của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ). Ông là Chủ tịch Hội đồng khoa học liên ngành Sử học – Khảo cổ học – Dân tộc học thuộc chương trình nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn của Quỹ nhiệm kỳ 2010 – 2016 và 2016 – 2018. Giáo sư Phan Huy Lê là chủ nhiệm Đề án khoa học xã hội cấp quốc gia “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam” do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phê duyệt, giao Quỹ tổ chức thực hiện (Đề án thực hiện theo chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tháng 01/2014 về việc nghiên cứu, biên soạn bộ sách Lịch sử Việt Nam). Đây là một Đề án có tầm quan trọng đặc biệt với hệ thống đề tài và sản phẩm đồ sộ, bao gồm: bộ Lịch sử Việt Nam 25 tập, bộ Biên niên sự kiện lịch sử Việt Nam 5 tập và Cơ sở dữ liệu lịch sử Việt Nam. Đề án đã huy động được trên 300 nhà khoa học thuộc các trường, viện, học viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội trong cả nước tham gia thực hiện. Giáo sư Phan Huy Lê tại Hội nghị triển khai đánh giá xét chọn đề tài Nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn tài trợ đợt 2 năm 2018 Buổi họp cuối cùng của Giáo sư Phan Huy Lê tại Văn phòng Đề án “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam”, ngày 24/5/2018 Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia trân trọng giới thiệu bài viết của GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ nhiệm Đề án “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam”,  nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, về Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê. ——————————————————             Giáo sư (GS) Phan Huy Lê sinh ngày 23 tháng 2 năm 1934 tại làng Thu Hoạch (nay là xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) – một vùng quê văn hiến của xứ Nghệ, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, trọng tình nghĩa, cần cù và hiếu học. Cả hai dòng họ nội, ngoại của GS Phan Huy Lê đều là những dòng họ khoa bảng nổi tiếng với những danh nhân văn hoá lớn như Phan Huy Cận (1722-1789), Phan Huy Ích (1751-1822), Phan Huy Ôn (1755-1786), Phan Huy Sảng (1764-1811),Phan Huy Quýnh (1775-1844), Phan Huy Thực (1778-1842), Phan Huy Chú (1782-1840), Phan Huy Vịnh (1800-1870), Cao Xuân Dục (1842-1923), Cao Xuân Tiếu (1865-1939), Cao Xuân Huy (1900-1983)… Bà nội ông là cụ Lê Thị Hòe, mặc dù góa chồng lúc mới 18 tuổi, con chưa đủ năm, nhưng đã một lòng nuôi dạy con trai thành tài nên được vua Nam Triều sắc phong bốn chữ “Tiết hạnh khả phong”. Cụ thân sinh ông là Phan Huy Tùng (1878-1939), Tiến sĩ Nho học khoa Quý Sửu đời vua Duy Tân (năm 1913), từng làm quan trong triều đình Huế, nổi tiếng thanh liêm, phúc đức, nhân hậu, hết mực yêu con, quý cháu.             Phan Huy Lê đã sống trọn những năm tháng tuổi thơ tại quê hương, thừa hưởng truyền thống trọng nghĩa và hiếu học từ hai gia đình nội ngoại, lại được khai tâm bằng những bài học làm người của một nhà giáo cách mạng mẫu mực[1]. Những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm bên cánh võng cùng bà nội và tình cảm sâu sắc với gia đình, quê hương đã định hình cá tính và nhân cách trước khi ông rời quê hoà nhập vào cuộc sống xã hội. Nếu bản thân ông thuộc về thế hệ trải qua thời kì gian nan của lịch sử Việt Nam hiện đại, thì tầm nhìn của ông đã vượt ra ngoài giới hạn đó. Chính truyền thống do tổ tông truyền lại đã giúp ông vững vàng trên con đường nghiên cứu một cách khách quan lịch sử nước nhà.             Năm 1952, khi 18 tuổi, ông ra học dự bị đại học ở Thanh Hoá. Tại đây, ông có cơ hội tiếp xúc với những trí thức cách mạng hàng đầu của đất nước. Không ít người đã ngạc nhiên khi nghe ông kể mình vốn ham mê khoa học tự nhiên và dự định chọn Toán – Lý cho tương lai nghề nghiệp của mình. Nhưng dường như số phận đã định trước cho Giáo sư Phan Huy Lê con đường nối nghiệp tổ tông, trở thành nhà Sử học. Ông dự cảm con đường đi của mình gắn liền với lịch sử Việt Nam: “Đất nước ta không rộng lớn lắm, lịch sử không để lại những công trình kỳ vĩ như Kim tự tháp, Vạn lý trường thành…, nhưng ông cha ta đã tạo dựng, lưu giữ và truyền lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một di sản thật vô giá với giang sơn tươi đẹp, đa dạng được lao động của con người khai phá, điểm tô; với những trang sử xây dựng và bảo vệ đất nước gian truân, hào hùng; với một kho tàng văn hoá phong phú và những giá trị truyền thống tiêu

Tin tức, Truyền thông khoa học

Bộ KH&CN Việt Nam – Lào: tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực

Sáng 25/6, tại thị xã Cửa Lò, Nghệ An, Ủy ban hợp tác KH&CN Việt Nam – Lào đã tổ chức khóa họp lần thứ 4. Tại khóa họp lần thứ 4 Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam – Lào, Bộ KH&CN Việt Nam và Lào thống nhất tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Dự Hội nghị về phía Bộ KH&CN Việt Nam có các đồng chí: Chu Ngọc Anh – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng; Trần Việt Thanh – Thứ trưởng, lãnh đạo một số đơn vị trực thuộc Bộ và một số tỉnh. Về phía Bộ KH&CN nước CHDCND Lào có các đồng chí: Boviengkham Vongdara – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào, Bộ trưởng; Bounty Thamith – Thứ trưởng. Đồng chí Phomma Sitsena – Công sứ Đại sứ quán nước CHDCND Lào tại Việt Nam; lãnh đạo một số đơn vị trực thuộc Bộ và một số tỉnh. Toàn cảnh khóa họp lần thứ 4 Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam Hiệp định hợp tác về KH&CN giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHDCND Lào được ký vào tháng 12/2008, thay thế Hiệp định ký năm 1985. Căn cứ theo Hiệp định, Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam – Lào được tổ chức 2 năm một lần, luân phiên tại mỗi nước. Tại khóa họp lần thứ 3 được tổ chức tại Viêng Chăn (Lào) vào tháng 12/2014, hai bên đã thống nhất các hướng ưu tiên hợp tác giai đoạn 2015 – 2016, tập trung vào các nội dung: trao đổi các đoàn cấp cao, hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực KH&CN của Lào; tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, năng lượng nguyên tử, thông tin KH&CN, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật gữa các địa phương của hai bên. Qua chương trình hợp tác, mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào nói chung và hợp tác trong lĩnh vực KH&CN nói riêng đang ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu. Tính đến tháng 12/2016, Bộ KH&CN Việt Nam cũng đã đào tạo 114 lượt cán bộ cho phía Lào trong các lĩnh vực như: viễn thám cơ bản và xử lý ảnh viễn thám, công nghệ chế tạo pin mặt trời và pin nhiên liệu… Đặc biệt, Bộ KH&CN Việt Nam và Lào phối hợp tổ chức triển khai Dự án xây dựng: Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KH&CN của Lào từ nguồn vốn ODA của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào, dự kiến bàn giao trong quý 3/2017 với tổng mức đầu tư hơn 98,8 tỷ đồng, trong đó phía Việt Nam là hơn 89,8 tỷ đồng và vốn đối ứng của Lào hơn 8,8 tỷ đồng;… Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh phát biểu tại khóa họp Phát biểu tại Khóa họp, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào, trong những năm qua, Bộ KH&CN Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác KH&CN với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt – Lào nói chung và hợp tác trong lĩnh vực KH&CN nói riêng đang ngày càng phát triển đặt yêu cầu hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu, đáp ứng được mong mỏi của cộng đồng các nhà khoa học và nhân dân hai nước. Bộ trưởng Chu Ngọc Anh mong muốn: “Toàn thể lãnh đạo, cán bộ hai Bộ KH&CN tiếp tục cố gắng và nỗ lực không ngừng để hợp tác giữa hai bộ đạt được nhiều kết quả hơn nữa, góp phần vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Nghị quyết Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như góp phần tô thắm thêm tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt lâu đời giữa nhân dân hai nước. Đồng thời cùng nhau đánh giá, trao đổi thỏa thuận Chương trình hợp tác mới cho giai đoạn 2017 – 2019 để thúc đẩy phát triển KH&CN của hai nước”. Bộ trưởng Bộ KH&CN Lào Boviengkham Vongdara cho biết hoàn toàn thống nhất với ý kiến của Bộ trưởng Chu Ngọc Anh; đồng thời đánh giá cao những kết quả Bộ KH&CN Việt Nam đạt được, góp phần xây dựng Việt Nam phát triển. Bộ trưởng Boviengkham Vongdara cũng đánh giá cao mối quan hệ hợp tác ở cấp Trung ương, địa phương trong lĩnh vực KH&CN giữa hai nước, đặc biệt là sự phối hợp trong khuôn khổ các nước ASEAN; qua đó góp phần vun đắp mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Bộ trưởng Bộ KH&CN Lào Boviengkham Vongdara phát biểu tại khóa họp Những năm gần đây, ngoài sự hỗ trợ của các sở KH&CN của các tỉnh ở Việt Nam có đường biên giới với Lào (như Quảng Bình, Quảng Trị và Sơn La với các tỉnh Xa-va-na-khẹt, Xa-la-văn, Hủa Phăn), trong việc chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất tại các địa phương Lào, sự hợp tác giữa ngành KH&CN của hai nước đã có bước phát triển đáng khích lệ. Trước hết, Bộ KH&CN Việt Nam đã hỗ trợ Bộ KH&CN Lào xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN; xác định phương hướng ưu tiên và hình thức hợp tác trong lĩnh vực KH&CN giữa hai nước giai đoạn 2014 – 2016 và các năm tiếp theo; Bộ KH&CN Việt Nam (từ nguồn vốn ODA) giúp xây dựng Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KH&CN của Lào. Theo kế hoạch, công trình

Tin tức, Truyền thông khoa học

GS. Nguyễn Hữu Dư được bổ nhiệm làm Giám đốc Điều hành Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán

Ngày 18/10/2013, GS. Nguyễn Hữu Dư – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQG Hà Nội (đồng thời cũng là Thư ký Hội đồng Khoa học của Viện) được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT bổ nhiệm làm Giám đốc Điều hành Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán thay cho GS. Lê Tuấn Hoa mới đây được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. GS. Lê Tuấn Hoa giữ cương vị là Giám đốc Điều hành của Viện từ ngày 01/06/2011 tới ngày 18/10/2013. GS. Lê Tuấn Hoa đã có công lao to lớn đóng góp vào quá trình soạn thảo Chương trình Trọng điểm quốc gia phát triển Toán học Việt Nam giai đoạn 2010-2020. Gắn bó với Viện từ những ngày đầu, GS. Lê Tuấn Hoa đã phối hợp cùng GS. Ngô Bảo Châu chèo lái Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán qua những thời điểm khó khăn của Viện. Những đóng góp to lớn của GS. Lê Tuấn Hoa cùng Ban giám đốc đã đưa Viện dần đi vào hoạt động ổn định và đạt được những thành tựu nhất định. GS. Lê Tuấn Hoa (trái) và GS. Nguyễn Hữu Dư. Là một người làm toán và quản lý đại học có kinh nghiệm, GS. Nguyễn Hữu Dư sẽ đóng góp tốt cho sự phát triển toán học nước nhà với tư cách là Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam và Giám đốc Điều hành Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán. Viện NCCC về Toán hoạt động theo Quy chế được Thủ tướng ban hành kèm theo Quyết định số 2343/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12 năm 2010. Ban Giám đốc của Viện hiện nay gồm Giám đốc khoa học, Giám đốc Điều hành và Phó Giám đốc hoạt động theo nhiệm kỳ 3 năm. GS. Nguyễn Hữu Dư hiện là thành viên Hội đồng Khoa học ngành Toán học của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED). Nhân dịp này xin được chúc GS. Nguyễn Hữu Dư trên cương vị mới sẽ có nhiều đóng góp quan trọng cho ngành Toán. (Nguồn: VIASM)

Tin tức, Truyền thông khoa học

“Kết nối các nhà khoa học trẻ” của Vương Quốc Anh và Việt Nam

Sáng kiến “Kết nối các nhà khoa học trẻ” Trong tháng 2/2014, Hội đồng Anh Việt Nam sẽ có tổ chức hai hội thảo chuyên đề về công nghệ sinh học và viễn thông trong chương trình “Kết nối các nhà khoa học trẻ” của Vương Quốc Anh và Việt Nam. Đây là sáng kiến được Hội đồng Anh đưa ra nhằm thúc đẩy hợp tác nghiên cứu quốc tế. Hội đồng Anh sẽ tài trợ chi phí tham gia hội thảo (ăn, ở và đi lại) cho các nhà khoa học trẻ từ Anh và Việt Nam được lựa chọn. Hạn nộp hồ sơ đăng ký vào ngày 16/12/2013. Kết nối các nhà khoa học trẻ: Hội thảo về công nghệ sinh học và viễn thông. Trong khuôn khổ chương trình Kết nối các nhà khoa học, Hội đồng Anh Việt Nam sẽ tổ chức hai hội thảo từ ngày 18-20 tháng 2/2014 tại Tp. Hồ Chí Minh: ·         Công nghệ sinh học: “Tăng cường chế tạo vắc-xin và chiến lược thực hiện: các ứng dụng của khoa học protein, protein và tá dược”– được phối hợp tổ chức cùng Đại học Aston, Vương quốc Anh và Trung tâm công nghệ sinh học Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam. ·         Viễn thông: “Những tiến bộ và phát triển của hệ thống viễn thông”– được phối hợp tổ chức cùng Đại học Leeds, Vương quốc Anh và Đại học bách khoa Đà Nẵng, Việt Nam. Để đăng ký tham gia, vui lòng click vào tên của hội thảo và sử dụng form đăng ký ở cuối các trang rồi gửi tới hộp thư: hong.hoang@britishcouncil.org.vn (lưu ý: các thông tin của chương trình đều sử dụng Tiếng Anh).

Lên đầu trang