Giáo sư, Nhà giáo nhân dân (GS.NGND) Phan Huy Lê, được biết đến là nhà khoa học tâm huyết có nhiều đóng góp cho nền sử học của đất nước, là người thầy mẫu mực được các nhà nghiên cứu lịch sử quý mến, kính trọng. Ông qua đời để lại niềm thương tiếc cho nhiều thế hệ học trò, đồng nghiệp, các nhà khoa học và những người yêu lịch sử Việt Nam. GS.NGND Phan Huy Lê Giáo sư Phan Huy Lê đã tham gia nhiều hoạt động của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Quỹ). Ông là Chủ tịch Hội đồng khoa học liên ngành Sử học – Khảo cổ học – Dân tộc học thuộc chương trình nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn của Quỹ nhiệm kỳ 2010 – 2016 và 2016 – 2018. Giáo sư Phan Huy Lê là chủ nhiệm Đề án khoa học xã hội cấp quốc gia “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam” do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phê duyệt, giao Quỹ tổ chức thực hiện (Đề án thực hiện theo chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tháng 01/2014 về việc nghiên cứu, biên soạn bộ sách Lịch sử Việt Nam). Đây là một Đề án có tầm quan trọng đặc biệt với hệ thống đề tài và sản phẩm đồ sộ, bao gồm: bộ Lịch sử Việt Nam 25 tập, bộ Biên niên sự kiện lịch sử Việt Nam 5 tập và Cơ sở dữ liệu lịch sử Việt Nam. Đề án đã huy động được trên 300 nhà khoa học thuộc các trường, viện, học viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội trong cả nước tham gia thực hiện. Giáo sư Phan Huy Lê tại Hội nghị triển khai đánh giá xét chọn đề tài Nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn tài trợ đợt 2 năm 2018 Buổi họp cuối cùng của Giáo sư Phan Huy Lê tại Văn phòng Đề án “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam”, ngày 24/5/2018 Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia trân trọng giới thiệu bài viết của GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ nhiệm Đề án “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam”, nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, về Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê. —————————————————— Giáo sư (GS) Phan Huy Lê sinh ngày 23 tháng 2 năm 1934 tại làng Thu Hoạch (nay là xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) – một vùng quê văn hiến của xứ Nghệ, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, trọng tình nghĩa, cần cù và hiếu học. Cả hai dòng họ nội, ngoại của GS Phan Huy Lê đều là những dòng họ khoa bảng nổi tiếng với những danh nhân văn hoá lớn như Phan Huy Cận (1722-1789), Phan Huy Ích (1751-1822), Phan Huy Ôn (1755-1786), Phan Huy Sảng (1764-1811),Phan Huy Quýnh (1775-1844), Phan Huy Thực (1778-1842), Phan Huy Chú (1782-1840), Phan Huy Vịnh (1800-1870), Cao Xuân Dục (1842-1923), Cao Xuân Tiếu (1865-1939), Cao Xuân Huy (1900-1983)… Bà nội ông là cụ Lê Thị Hòe, mặc dù góa chồng lúc mới 18 tuổi, con chưa đủ năm, nhưng đã một lòng nuôi dạy con trai thành tài nên được vua Nam Triều sắc phong bốn chữ “Tiết hạnh khả phong”. Cụ thân sinh ông là Phan Huy Tùng (1878-1939), Tiến sĩ Nho học khoa Quý Sửu đời vua Duy Tân (năm 1913), từng làm quan trong triều đình Huế, nổi tiếng thanh liêm, phúc đức, nhân hậu, hết mực yêu con, quý cháu. Phan Huy Lê đã sống trọn những năm tháng tuổi thơ tại quê hương, thừa hưởng truyền thống trọng nghĩa và hiếu học từ hai gia đình nội ngoại, lại được khai tâm bằng những bài học làm người của một nhà giáo cách mạng mẫu mực[1]. Những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm bên cánh võng cùng bà nội và tình cảm sâu sắc với gia đình, quê hương đã định hình cá tính và nhân cách trước khi ông rời quê hoà nhập vào cuộc sống xã hội. Nếu bản thân ông thuộc về thế hệ trải qua thời kì gian nan của lịch sử Việt Nam hiện đại, thì tầm nhìn của ông đã vượt ra ngoài giới hạn đó. Chính truyền thống do tổ tông truyền lại đã giúp ông vững vàng trên con đường nghiên cứu một cách khách quan lịch sử nước nhà. Năm 1952, khi 18 tuổi, ông ra học dự bị đại học ở Thanh Hoá. Tại đây, ông có cơ hội tiếp xúc với những trí thức cách mạng hàng đầu của đất nước. Không ít người đã ngạc nhiên khi nghe ông kể mình vốn ham mê khoa học tự nhiên và dự định chọn Toán – Lý cho tương lai nghề nghiệp của mình. Nhưng dường như số phận đã định trước cho Giáo sư Phan Huy Lê con đường nối nghiệp tổ tông, trở thành nhà Sử học. Ông dự cảm con đường đi của mình gắn liền với lịch sử Việt Nam: “Đất nước ta không rộng lớn lắm, lịch sử không để lại những công trình kỳ vĩ như Kim tự tháp, Vạn lý trường thành…, nhưng ông cha ta đã tạo dựng, lưu giữ và truyền lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một di sản thật vô giá với giang sơn tươi đẹp, đa dạng được lao động của con người khai phá, điểm tô; với những trang sử xây dựng và bảo vệ đất nước gian truân, hào hùng; với một kho tàng văn hoá phong phú và những giá trị truyền thống tiêu